Đề Xuất 5/2023 # Chim Chào Mào: Phân Loại Kiểu Dáng Vùng Miền Các Nước Trên Thế Giới # Top 5 Like | Lamdeppanasonic.com

Đề Xuất 5/2023 # Chim Chào Mào: Phân Loại Kiểu Dáng Vùng Miền Các Nước Trên Thế Giới # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Chim Chào Mào: Phân Loại Kiểu Dáng Vùng Miền Các Nước Trên Thế Giới mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

I. Mô tả và khái quát:

Chim chào mào có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là(Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là chào mào.

Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là ” Lanius”.

Tại vùng châu Á, chúng có nhiều tên gọi khác. Cụ thể Turaha pigli-Pitta tại Telugu, bulbul Sipahi tại Bengali hay bulbul hoặc Kanera bulbu Phari trong tiếng Hinddi.

Trong tự nhiên, chào mào thường sinh sống trong các khu vực có nhiều cây cối, bụi rậm nhưng không phải là rừng rậm. Môi trường của chúng chính là những chảng cây hay rừng thưa, hầu như chúng xuất hiện vào một thời gian nào đó chưa xác định trong năm với một đàn lớn với rất nhiều cá thể. Với giọng hót đặc biệt, chúng rất dễ dàng xác định vị trí khi đậu trên một nhánh cây cao hoặc trên ngọn cây. Giọng hót được đánh giá là “dễ nghe” với tiếng hót được lập lại nhiều lần được miêu tả là Pettigrew-kick hoặc Pettigrew phiên dịch là “tôi muốn gặp mặt”. Đó là giọng hót thường được nghe, nhất là những buổi sáng sớm. Tuổi thọ trung bình được ghi nhận là 11 năm.

II. Sinh sản, hành vi sinh thái:

Mùa sinh sản được bắt đầu từ tháng mười hai đến tháng năm ở miền nam Ấn Độ và từ tháng ba đến tháng mười ở miền bắc Ấn Độ. Có cặp có thể sinh sản 2 lần/năm. Những màn “ve vãn” của con trống là những hành vi như cúi đầu, đuôi nhâm nhấp và cánh rũ xuống. Tổ có hình dạng cốc và được xây dựng ở bụi cây, tường tranh hoặc trong những bụi cây nhỏ. Tổ được kết dính từ các nhánh cây chắc chắn với các thành phần của rể cây và cỏ và có thể được tạo thêm từ vỏ cây, giấy hay những mảng nilon. Mỗi ổ thường chứa từ 2-3 trứng có màu đất màu hoa cà nhạt với các đốm nâu. Trứng đo được là dài 21 mm và rộng 16 mm. Trứng mất 12 ngày để nở. Chim bố mẹ đều tham gia trong việc nuôi con. Chim non được bố mẹ đút sâu bướm và côn trùng được thay thế bằng trái cây và dâu khi chúng bắt đầu trưởng thành. Trứng và chim non là đối tượng thức ăn của giống chuột lang và quạ. Trong thời gian con non còn trong ổ, khi phát hiện có sự nguy hiểm, chim mái thường giả vờ bị thương hay giả chết để đánh lạc hướng kẻ thù.

Ổ của chim chào mào.

Mỗi cặp khi vào mùa sinh sản, chúng sẽ bảo vệ ổ trong một diện tích khoảng 0,3 ha đến 0,75 ha. Thông thường, có đến hàng trăm con và thường ngủ trên một ngọn cây cao và thông thường, những nhánh cây này hay đong đưa.

Việc sinh sản rất dễ dàng trong chuồng nuôi với điều kiện nuôi nhốt. Đặc biệt đã có sự ghi nhận phủ giống lai tạo giữa các loài trong họ hoành hoặch, đó là các loài Pycnonotus cafer, Pycnonotus leucotis, Pycnonotus xanthopygos, Pycnonotus melanicterus và Pycnonotus leucogenys với những cá thể có sắc tố bạch tạng (leucism).(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch)

Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á.

III. Các phân loài:

Đây là điều làm người viết rất ngạc nhiên và bất ngờ khi biết loài chim chào mào này có đến 9 phân loài. Cả 9 phân loài đều tập trung tại châu Á và đều có hình dáng rất giống nhau. Nhưng sự phân biệt cho từng phân loài cụ thể dựa vào các yếu tố :

– Hình dạng của yếm,

– Độ đậm nhạt và độ dày mỏng của 2 miếng vá đen chạy từ vùng vai xuống bụng,

– Màu sắc phía trên lưng đen hay đen nâu,

– Mức độ bông trắng của phần lông đuôi và độ dài của phần trắng của lông đuôi ấy.

– Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).

– Kích thước hình thể to hay nhỏ – …

Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:

Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758), được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.

Pycnonotus jocosus fuscicaudatus (Gould, 1866) phân bố tại bán đảo Ấn Độ, khu vực phía tây và trung tâm Ấn Độ. Phần yếm đã gần như hoàn chỉnh và phần màu trắng ở cuống họng (cổ) rõ ràng, không có màu trắng nằm cuối cùng ở lông đuôi. (dể hiểu hơn là đuôi không có bông trắng).

Pycnonotus jocosus abuensis (Whistler, 1931) – Tây Bắc Ấn Độ (phía tây tỉnh Rajasthan, bắc Maharashtra, nhưng vắng mặt tại nhiều khu vực khô hạn). Có yếm đen nhạt màu, trông có vẻ như bị đứt từng đoạn và đuôi cũng không có bông trắng.

Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.

Pycnonotus jocosus emeria (Linnaeus, 1758) – Phía đông Ấn Độ (vùng phía nam đồng bằng sông Hằng đến Rameswaram, ở Tamil Nadu), Bangladesh, phía bắc, tây và nam Myanmar (bao gồm cả Arakan Hills) và cả miền tây nam Thái Lan. Có màu nâu đậm trên lưng, yếm đen mỏng và thanh mảnh, mũ kim – Đây là loài đã được du nhập vào Florida trong khoảng năm 1960 – 1971.

Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.

Pycnonotus jocosus monticola (Horsfield, 1840) – phân bố phía đông dãy Himalaya ở Đông Bắc Ấn Độ và Tây Tạng, phía đông, phía nam và đông bắc Myanmar và Trung Quốc (khu vực phía tây và nam ở Vân Nam). Có màu trắng ở bụng tối và trông có vẻ “bẩn” hơn.

Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.

Pycnonotus jocosus hainanensis (Hachisuka, 1939) – phân bố tại bắc Việt Nam và nam Trung Quốc (khu vực nam Quảng Đông, bao gồm cả Nao Chow Tao).

[IMG] http://www.avianweb.com/images/birds/bulbuls/RedwhiskeredBulbul7.jpg[/IMG]

Và một phân loài có tên là Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận.

Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài:

Park Hong Kong, Hong Kong

Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp [I]Pattani)

Hoatoctien Oliver @ 17:24 02/02/2012 Số lượt xem: 1601

Chào Mào Miền Trung Có Gì Khác Biệt So Với Các Vùng Khác

Có rất nhiều anh em chơi chim đều mong muốn sẽ tìm được một em chào mào miền trung để bổ sung vào bộ sưu tập chim cảnh của mình. Và có bao giờ bạn thắc mắc rằng chào mào miền trung có điểm gì khác biệt có thể thu hút được giới chơi chim đến thể không? Bài viết sau đây là những đánh giá của Chú Gióng để bạn có thể tham khảo. Bài viết này do Chú Gióng tổng hộp từ nhiều nguồn, có điều gì chưa đúng mong anh em lượng thứ.

Chào mào miền trung có gì nổi bật

1. Về ngoại hình

Nhiều anh em nói rằng những chú chào mào miên trung có thân hình nhỏ gọn và mào ngắn tuy nhiên theo cá nhân tôi thì Xét về ngoại hình thì chào mào miền trung và các vùng miền khác không có nhiều sự khác biệt bởi ở đâu cũng có con dài con ngắn con to con nhỏ, nên nếu bạn thấy ai nói rằng có thể phân biệt được chào mào các vùng bằng ngoại hình thì hoàn toàn không đúng sự thật bởi ngay các các cao nhân lão lãng có nhiều năm kinh nghiệm trong việc chơi chim cảnh cũng không thể khẳng định 100% có thể đoán được đâu là chào mào miền trung và đâu là chào mào các vùng khác. Chính vì vậy theo quan điểm cá nhân tôi thì ngoại hình của chào mào miền trung và các vùng miền khác đều như nhau.

3. Về giọng hót

Nếu để dùng tiêu chí giọng hót để phân biệt chào mào miền trung và các dòng chào mào của vùng miền khác thì có khả quan nhất. Những cao nhân lão làng có thể nghe giọng và đoán rất chính xác được đâu là chào mào miền trung đâu là chào mào của các vùng miền khác. Những chú chim chào mào ở miền trug đa phần sở hữu một chất giọng đanh chắc. Đa phần là tiếng hót của chúng là giọng thổ to và đánh chăc.

Với những thông tin trên hi vọng rằng anh em sẽ nắm được phần nào đó về đặc điểm của những chú chào mào miền trung nếu cao nhân nào có cách phân biệt rõ ràng hơn nữa vui lòng góp ý để chúng tôi mang những thông tin ấy chia sẻ cho anh em chơi chim được rõ nhất.

Top 10 Loài Chim Đẹp Nhất Trên Thế Giới

Chim Trĩ vàng

Giống chim trĩ vàng (Golden Pheasant) có tên khoa học là chrysolophuspictus, từ lâu được nhiều người chọn nuôi làm cảnh vì mình chúng khoác bộ lông nhiều màu sặc sỡ, với mảng màu vàng óng phủ suốt từ đỉnh đầu đến tận gốc đuôi, riêng phần cổ và cánh đan xen nhiều khoang đặc trưng với các sắc lông đen, vàng, tím, còn phần ức và bụng được phủ kín tuyền sắc lông màu đỏ tươi. Đó là chưa nói đến cái đuôi thật dài với nhiều vân đan xen như trăm ngàn ánh sao lấp lánh tuyệt đẹp.

Trĩ vàng nhờ có bộ lông sặc sỡ nên từ lâu đã được đánh giá là giống trĩ đẹp nhất so với các giống trĩ khác ở Á Châu, nên thời nào cũng bán được giá cao và có thị trường tiêu thụ mạnh. Thức ăn của chúng ngoài hoang dã chủ yếu là lá cây, chồi non, măng của tre trúc. Chúng cũng ăn côn trùng và nhiều động vật nhỏ… hiện nay ở Việt nam cũng đã nuôi được loài chim này để phục vụ cho du khách tham quan.

Nơi cư trú: Vùng rừng núi miền Tây Trung Quốc là chủ yếu, ngoài ra có một vài quần thể hoang dã khác.

Hồng hạc (Phoenicopteridae)

Hồng hạc là tên loài chim lội nước thuộc họ Phoenicopteridae, bộ Phoenicopteriformes. Chúng sống ở cả Tây bán cầu và Đông bán cầu, nhưng sống ở Tây bán cầu nhiều hơn. Có 4 loài sống ở châu Mỹ và 2 loài sống ở Cựu Thế giới. Phân loại Sibley-Ahlquist trong thập niên 1990 đã xếp hồng hạc vào bộ Hạc thay vì bộ Hồng hạc. Chim hồng hạc có đặc điểm đặc biệt là thích đứng một chân đã làm nhiều nhà khoa học khó hiểu. Sau khi nghiên cứu một số nhà khoa học đoán hồng hạc đứng một chân để giữ sức và lưu thông máu tốt hơn.

Hồng hạc khi mới sinh ra thì chúng có bộ lông màu trắng, mãi sau này khi lớn lên màu lông đổi sang màu hồng nhạt hoặc đỏ thẫm là nhờ vào nguồn thức ăn nơi chúng sinh sống. Chim Hồng hạc thường thức giấc trước lúc bình minh, đi thành từng bầy lớn để kiếm ăn, vào cuối ngày chúng lại di chuyển đến các vùng nước nông để nghỉ ngơi.

Nơi cư trú: Sống ở cả Tây bán cầu và Đông bán cầu.

Hoàng oanh phương Bắc ( Icterus galbula)

Hoàng oanh phương Bắc là một loài chim không to lắm với bộ lông đen và vàng xen kẽ, chỉ nặng chừng 34g và dài 18cm. Là một trong những loài chim màu rực rỡ, hoàng oanh không chỉ đẹp mà còn hót rất hay. Chẳng thế, người ta thường dùng thành ngữ “thỏ thẻ giọng oanh vàng” để chỉ người phụ nữ.

Loài chim này có kích cỡ trung bình, chúng có mỏ tương đối khỏe và nhọn, các chân và các ngón tương đối ngắn nhưng lại chắc chắn. Màu lông của chúng rất bắt mắt với màu vàng tươi, trên đầu bộ lông có màu đen và trải dài xuôi hai đôi cánh, đôi chỗ xen lẫn thêm chút vàng đậm tạo nên sự sặc sỡ của chúng. Loài chim này là loại chim ăn tạp với thức ăn chủ yếu là hoa quả, sâu bọ và mật ong.

Nơi cư trú: Phía đông bán cầu.

Tucan mỏ đục (Ramphastos sulturatus)

Chim Toucan Swainson hay còn gọi là Chim Toucan mỏ đục (Danh pháp khoa học là Ramphastos ambiguus swainsonii) là một phân loài của loài chim Toucan hàm đen. Tên khoa học tiếng Anh của chúng bắt nguồn từ nhà nghiên cứu chim kiêm nghệ sĩ người Anh là William Swainson. Đây là loài chim có hình dáng đẹp và được ưa chuộng để nuôi làm cảnh ở một số quốc gia.

Giống như những con chim Toucans khác, chim Toucan hàm nâu hạt dẻ có một vệt sáng trên đầu và có một cái mỏ trông lớn hơn. Những con trống có chiều dài 56 cm, trong khi những con mái nhỏ hơn thường dài 52 cm. Trọng lượng trung bình của chúng khoảng 599 – 746 gram. Cả hai giới đều giống nhau về hình dạng, chủ yếu là màu đen, lưng và ngực thấp hơn. Các mặt và ngực phía trên có màu vàng tươi sáng, với những đường hẹp trắng và rộng hơn màu đỏ tạo thành một đường biên thấp hơn. Phần phía trên đuôi là màu trắng và phần dưới bụng có màu đỏ. Chân chúng có màu xanh. Bộ lông cơ thể là tương tự như của loài Ramphastos sulfuratus nhưng nhỏ hơn, nhưng các mô hình này là khá khác nhau, được chia thành đường chéo màu vàng rực rỡ và màu nâu sẫm.Chim non, chim ra ràng có muội đen, và có bộ lông màu nhạt, đặc biệt là đối với các cái mỏ, viền màu đỏ, và hàm dưới thấp hơn. Chúng được nuôi dưỡng bởi chim bố mẹ trong vài tuần sau khi rời tổ. Những tiếng kêu của Chim Toucan hàm nâu hạt dẻ mandibled là một giọng âm thanh nghe như yo-yip, từng nhịp yip, yip một, nó nghe như giai điệu của bản Dios te dé, Dios te dé. Tiếng kêu của nó để duy trì liên lạc cũng như thể hiện địa vị của mỗi con.

Nơi cư trú: Nam Mỹ, từ nam Mehico tới Honduras.

Vẹt Macaw

Vẹt Macaw hay còn gọi là Vẹt đuôi dài là tập hợp đa dạng các loài vẹt có đuôi dài, từ nhỏ đến lớn, thường sặc sỡ màu sắc và thuộc về phân họ Vẹt Tân thế giới Arinae phân bố phần lớn ở Nam Mỹ. Nhiều loài trong số chúng được ưa chuộng để nuôi làm chim cảnh.

Vẹt Macaw dài 84 – 89 cm, trọng lượng 900 – 1,490 g, là một trong những con vẹt kích thước lớn nhất. Cơ thể chủ yếu là sáng màu đỏ tươi, mắt và má da trần có ít lông bên màu đỏ, Cổ màu đỏ tươi. Giáp cổ màu đỏ vàng, mỏ dưới đen mỏ trên màu ngà cuối mỏ màu đen. Lông cánh giữa phía trên có màu vàng trộn màu xanh lá cây, lông vũ chính ngoài cùng là màu xanh, và bên trong gần đuôi lôn màu xanh, mống mắt màu vàng, chân móng vuốt đen.

Đây là một loài chim thuộc gia đình họ vẹt, bộ lông của chúng nhiều màu sắc chủ yếu là màu đỏ tươi bên cạnh đó là một số lông vũ màu xanh, trên cánh có màu vàng, đuôi dài mà xanh dương và da cam. Thức ăn của chúng chủ yếu là các loại hạt, trái cây và mật hoa.

Nơi cư trú: Vùng nhiệt đới Nam Mỹ, nhiều nhất ở Braxin và Peru.

Công (Pavo)

Công hay là một loài chim thuộc họ Trĩ được Linnaeus mô tả khoa học lần đầu năm 1766. Chim công sinh sống ở rừng nhiệt đới Đông Nam Á và phía nam Trung Quốc. Nó có mối quan hệ gần gũi với Pavo cristatus ở lục địa Ấn Độ. Công đã từng phân bố rộng rãi ở Đông Nam Á từ phía đông và đông bắc Ấn Độ, Bắc Myanma và miền nam Trung Quốc, mở rộng thông qua Lào, và Thái Lan vào Việt Nam, Campuchia, bán đảo Mã Lai và các đảo Java. Loài này được tìm thấy trong một loạt các môi trường sống bao gồm cả rừng nguyên sinh và thứ cấp, cả hai vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, cũng như thường xanh và rụng lá. Họ cũng có thể được tìm thấy trong các khu vực có cây tre, đồng cỏ, thảo nguyên, cây bụi và cạnh đất nông nghiệp.

Con đực có bộ lông có màu xanh lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim cái. Con cái gần giống con đực nhưng không có mào đầu, không có lông trang hoàng. Lông đuôi con cái thường ngắn và có viền nâu. Mắt nâu thẫm, mỏ xám sừng, chân xám.

Nơi cư trú: Châu Á đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.

Tổng hợp bởi: Top Vozz

Cám Chào Mào Tốt Nhất Trên Thị Trường Là Loại Nào

Những loại cám chào mào tốt nhất trên thị trường

Trải qua một quãng thời gian dài thử nghiệm với những thành phần công thức khác nhau đến naycám chim chào mào CAND đã hoàn thiện hơn và được được đánh giá cao . Hầu hết những người nuôi chim chào mào đều nhận xét rằng loại cám này này giúp những chú chào mào của họ căng lửa lông mượt mà và tốt sử dụng tốt nhất là trong quá trình thay lông. Ngoài ra những chú chim chào mào đang bị suy lông hay không có đủ dinh dưỡng ở chế độ ăn uống trước kia đều được phục hồi một cách tốt nhất

Một loại cám chào mào tốt nhất trên thị trường khác được đánh giá khá cao là cám thắng mẹo với mô hình sản xuất theo quy trình chuyên nghiệp tất cả những thành phần dinh dưỡng trong loại cảm này đều được lựa chọn từ những chất liệu tốt nhất và được pha chế một cách bài bản khoa học. Khi sử dụng loại cám này đa số mọi người được nhận xét rằng chim khá xung và căng lửa. Trong thành phần cám không sử dụng các thành phần kích thích tuy nhiên chim vẫn được khỏe mạnh và bền bỉ ngoài ra các thắng mẹo còn giúp cho những chú chào mào có được bộ lông đẹp nhất với những sắc tố màu trên cơ thể khá tốt. Hiện nay bạn có thể mua cám cho chào mào thẳng mèo ở trên khắp các cửa hàng chim lớn ở Sài Gòn. Một điểm khiến cho nhà cung cấp này được đánh giá caochính là phong cách phục vụ khá tốt

Sản phẩm cám chim chào mào ba vì khá đa dạng bạn có thể lựa chọn cho những chú chim của mình ở trong từng giai đoạn khác nhau. Theo đánh giá của những người chơi chim cảnh lâu năm thì loại cám này của bổ sung cho những chú chim chào mào của họ được dinh dưỡng đầy đủ. Khi sử dụng loại cám này anh em chỉ cần cho chúng ăn thêm hoa quả và một loại thức ăn tươi như châu chấu cào cào là đảm bảo những chú chim của bạn sẽ có được một thể trạng sức khỏe tốt nhất.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Chim Chào Mào: Phân Loại Kiểu Dáng Vùng Miền Các Nước Trên Thế Giới trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!