Cập nhật nội dung chi tiết về Đặc Điểm Da Và Sản Phẩm Của Da Chim Bồ Câu Và Chim Cút mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đăng ngày: 16/02/2014 11:23
Da của chim bao phủ toàn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở chim non
Da của chim bao phủ toàn thân và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc trao đổi nhiệt giữa cơ thể với môi trường, nhất là ở chim non. Da gồm 2 phần chính, lớp biểu bì với lớp tế bào hình trụ cùng với lớp mô liên kết mỏng và sợi collagen tạo thành lớp da ngoài bền chắc, nghèo mạch máu và hầu như không có tuyến ngoại tiết. Dưới lớp biểu bì là lớp mô liên kết mỏng gần giống như mô mỡ, có chứa nhiều mạch máu và dây thần kinh. Đặc điểm lớn nhất của da chim là mỏng, nghèo các tuyến dưới da, không có tuyến mồ hôi. Người ta cho rằng, cùng với việc phát triển của lớp da, khả năng điều chỉnh nhiệt của nó dần dần thay đổi, cho phép cơ thể chim thích nghi với sự thay đổi nhiệt độ của môi trường xung quanh. Trong những ngày đầu tiên sau khi nở, việc thải nhiệt xảy ra trên toàn bộ bề mặt da. Khi đó thân nhiệt của chim con khoảng 38,7 – 38,9oC. Việc giữ nhiệt kém của bộ lông tơ đã làm hạn chế khả năng thích nghi của cơ thể chim non với những thay đổi đột ngột về nhiệt độ môi trường, vì vậy khi nuôi chim non, việc giữ nhiệt độ thích hợp là quan trọng nhất.
Trong những tuần tuổi đầu tiên đã xảy ra việc thay lông tơ bằng lông non đồng thời với việc phát triển các nang lông và tạo nên các nếp nhăn của da. Trong thời kỳ tiếp theo đến 150 ngày tuổi, lớp lông non được thay bằng lông trưởng thành có khả năng cách nhiệt rất tốt. Nhiệt độ bên trong cơ thể trong thời kỳ này là 40,6 41,0 o C. Trong giai đoạn này, những biến đổi nhiệt ở môi trường bên ngoài ít ảnh hưởng hơn đến cơ thể chim (A. G. Xviridjuc).
Cần lưu ý là thân nhiệt của chim rất cao so với động vật có vú (40 – 41oC), toàn thân (trừ mỏ và chân) của chim được che phủ bởi một lớp lông vũ dày. Tuyến mồ hôi (một tuyến có vai trò to lớn trong việc thải nhiệt của cơ thể khi quá nóng) lại không có ở chim, do đó, việc thải nhiệt của cơ thể trong điều kiện thời tiết nóng là cực kỳ khó khăn. Trong chăn nuôi cần hết sức chú ý đến đặc điểm này để thiết kế chuồng trại, tạo tiểu khí hậu chuồng nuôi thích hợp, có độ thông thoáng cao, mát mẻ và thông khí tốt.
Tuyến phao câu (tuyến sáp) là tuyến duy nhất có ở biểu mô của chim, nằm ở vùng đốt sống đuôi, tuyến này có 2 thuỳ hình ô van, chất tiết của chúng là chất nhờn, thành phần gồm nước, protein, lipit, axit nucleic, lexitin. Khi mới tiết ra, chất tiết ở dạng dầu nhờn, đặc quánh, sau một thời gian ngắn, chúng biến thành dạng sáp, có tác dụng làm cho bộ lông nhờn, sáng bóng và mềm mại, không thấm nước, nhất là ở thuỷ cầm. Sự hoạt động của tuyến phao câu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như lượng mỡ trong thức ăn, nước uống. Sự hiểu biết về vai trò của tuyến phao câu cho đến nay vẫn chưa đầy đủ. Nếu cắt bỏ tuyến phao câu ở con trống, nó sẽ trở nên giảm tính hăng và mất các phản xạ sinh dục thứ cấp.
Sản phẩm của da a. Bộ lông
Lông phân bố không đều trên bề mặt cơ thể chim non cũng như trưởng thành, chiếm tỷ lệ 4-9 % khối lượng cơ thể và chứa 82% protein.
Những chim non vừa nở được phủ lông tơ, gốc của lông tơ gắn vào thân của lớp lông đầu tiên, phía ngoài xoà ra, phủ đều trên bề mặt của da. Sau 2-3 tuần tuổi, thân lông đầu tiên mọc từ túi lông, thay thế lông tơ. Việc hình thành bộ lông đầu tiên của chim non ở các loài và giống khác nhau thì khác nhau và được hoàn thiện ở những tuần tuổi khác nhau.
Người ta phân biệt các loại lông theo cấu trúc và chức năng của chúng: lông ống, lông nệm (lông bông), lông chỉ, lông chổi và lông tơ.
Lông ống có số lượng nhiều nhất, đó là lông cánh, lông đuôi và lông bao phủ trên thân, chúng nằm xếp lớp lên nhau và tạo thành bộ lông bên ngoài. Về cấu tạo, loại lông này chỉ có 1 trục, 2 phiến lông đối xứng 2 bên và có nhiều móc lông để móc vào nhau tạo thành phiến.
Cùng với lông nệm nằm dưới, nó tạo nên lớp lông cách nhiệt, bao phủ hầu như toàn thân. Tuỳ thuộc vào nơi mọc mà người ta gọi tên của chúng: lông cổ, gáy, lưng, vai, diều, ngực, bụng, cánh
Ở cánh có 3 loại lông ống: lớn, trung bình và nhỏ. Lông cánh dài và chắc, làm thành quạt lông chắn gió, lông vũ hàng thứ nhất ở vùng ngón thứ 2 và thứ 3; chim có 10 – 12 chiếc. Lông vũ hàng thứ hai (11 – 12 chiếc) dính tới mặt ngoài của xương cánh tay và có hình quạt đều rộng, 3 – 4 lông dính tới ngón thứ nhất của cánh tạo nên lông cánh nhỏ, có ý nghĩa rất quan trọng khi bay lên và hạ cánh, chống lại sự tạo thành dốc thang của các dòng không khí phía trước.
Lông đuôi (10 – 12) nằm theo hàng ngang, mọc tới 4 – 6 đốt sống đuôi cuối cùng. Lông đuôi có thân lông cứng và phiến lông thẳng.
Lông bông có trục ngắn, phiến lông trên đầu trục là một búi mềm không định hướng. Người ta phân biệt lông bông phủ toàn thân ở chim non và trưởng thành. Số lượng lông bông không giống nhau ở các loài và giống chim. Lông bông phát triển mạnh ở vùng bụng của chim.
Tất cả lông bao và lông tơ tạo thành bộ lông nhỏ của chim, lông cánh và lông đuôi tạo nên bộ lông lớn.
Lông chỉ hay là lông hình sợi rất giống như lông mao của gia súc nhưng rất mảnh. Những lông này mọc thành từng nhóm nhỏ (từ 2 đến 10 chiếc) xung quanh lông vũ. Có thể quan sát loại lông này rất rõ sau khi chim đã được vặt lông rồi cho tiếp xúc với nền nhà trong vòng 3-5 phút, khi đó, chúng sẽ mọc rất nhanh và nhiều. Chức năng của lông này hiện chưa được giải thích rõ.
Lông chổi (giống hình chổi quét sơn) mọc xung quanh lỗ thoát chất tiết của tuyến phao câu (tuyến sáp), có thân tương đối dài và mỏng, ở đầu có một chùm tơ.
Lông tơ chỉ có một thân mỏng, không có phiến lông, mọc chủ yếu ở gốc mỏ, thỉnh thoảng ở ngón chân, trên mắt (lông mi).
Lông bao của các loài và giống chim khác nhau thì khác nhau, chúng tạo nên đặc trưng về hình dạng bên ngoài của chim. Lông chim thực hiện những chức năng khác nhau: bảo vệ cơ thể khỏi những ảnh hưởng xấu của môi trường (lạnh, ấm…), điều hoà nhiệt và xúc giác. Một số lông chuyên dùng để bay, một số khác là dấu hiệu sinh dục thứ cấp của chim.
Màu sắc lông chim gắn chặt với sự có mặt của những sắc tố melanin và lipocrom. ở trong lông, sắc tố có hình hạt hay hình gậy. Melanin được tạo nên trong ti lạp thể của tế bào sinh trưởng biểu mô melaniphor. Tiền sắc tố melanin là melanogen. Sự oxy hoá melanogen ở các mức độ khác nhau sẽ cho ra các màu của lông khác nhau: vàng đất, vàng gỉ sắt, hung gỉ sắt, nâu hung, nâu, đen.
Màu lông rực rỡ của một số giống chim được tạo bởi sắc tố khác – lipocrom. Nó thuộc nhóm sắc tố carotenoit. Lipocrom hoà tan trong mỡ và có nguồn gốc ngoại sinh. Chúng làm cho lông có màu màu vàng, đỏ, xanh da trời hoặc xanh lá cây. Mỗi cá thể có thể có một màu hoặc nhiều màu.
Nếu không có sắc tố thì lông màu trắng, đó là chim bạch tạng, thường thấy ở chim bồ câu trắng.
Hocmon tuyến giáp trạng tham gia điều khiển quá trình mọc lông bình thường ở chim. Sau khi cắt bỏ tuyến này thì sự khác biệt về màu sắc lông giảm đi hoặc mất hoàn toàn.
b. Sinh lý thay lông
Thay lông là sự thay đổi thường kỳ của lông và thành phần cấu trúc biểu bì của da. Đối với chim hoang dã, sự thay lông có tính mùa vụ, thường là bắt đầu vào mùa thu, khi di chuyển chỗ ở hoặc lúc bắt đầu mùa đông giá lạnh. Vì vậy thay lông là sự thích nghi sinh học của chim với việc thay đổi điều kiện sống. Chim đã được thuần hoá đã nhận được tính di truyền này từ tổ tiên của chúng.
Người ta phân biệt thay lông của chim non (thay lông non) và thay lông thường kỳ (hàng năm) của chim trưởng thành, trùng với mùa nhất định. Chim cầm có thể thay toàn bộ hay một phần của bộ lông. Khi thay lông, trong cơ thể chim xảy ra những thay đổi về hoạt động của hệ thần kinh về cơ quan nội tiết, đồng thời diễn ra quá trình tăng cường trao đổi chất, chủ yếu là trao đổi protein và muối khoáng, cơ thể rất mất cân bằng, giảm sức đề kháng với bệnh tật, dễ ốm, chim trưởng thành giảm nhanh hoặc ngừng đẻ trứng.
Những thay đổi mạnh của thức ăn và điều kiện nuôi dưỡng, các tác nhân strees (nhiệt độ, độ ấm cao, thấp; bệnh tật… ) đều có thể gây nên hiện tượng thay lông trước thời hạn.
Ở chim non, cơ thể thay lớp lông đầu tiên bằng lớp lông cơ bản (lớp thứ hai), quá trình này kết thúc khi khối lượng cơ thể đã cơ bản hoàn thành và bắt đầu thành thục sinh dục. Thời điểm bắt đầu và số ngày thay lông non của chim ở các dòng, giống khác nhau thì khác nhau, bắt đầu từ 1,5 tháng tuổi và kết thúc hoàn toàn lúc bắt đầu đẻ trứng. Việc thay lông ở chim trống xảy ra mạnh mẽ hơn ở chim mái. Thay lông cánh xảy ra cùng lúc với việc thay các lông khác.
Thay lông cánh ở chim bắt đầu theo hướng từ trong ra ngoài. Lông cánh của chim con có 7 lông ống hàng thứ nhất và tám lông hàng thứ hai. Tiếp theo mọc 3 lông hàng thứ nhất còn lại, trong khi đó thay lông hàng thứ nhất bắt đầu từ những lông cuối (8 – 10) chưa mọc hết. Trong thời gian này xuất hiện những lông vũ chưa đủ dài của hàng thứ hai. Việc thay chúng xảy ra theo hướng ngược lại – từ ngoài vào giữa cánh.
Thay lông của chim trưởng thành được nhắc lại mỗi năm một lần trong đời và thường diễn ra vào một mùa cố định trong năm, khi thời gian chiếu sáng thay đổi: từ ngày dài chuyển sang ngày ngắn, thường gặp vào cuối mùa hè và mùa thu, thỉnh thoảng vào mùa đông.
Sự thay lông vĩnh viễn ở chim thường diễn ra tuần tự từ lông móc cổ, lưng, sau đó đến những phần khác, đồng thời thay cả lông cánh. Lông cánh của hàng thứ nhất rụng kế tiếp nhau bắt đầu từ chiếc thứ nhất đến chiếc thứ 10. Mỗi chiếc lông cánh được thay tương đương với sự thay 10% bộ lông của cơ thể. Chiếc lông đầu tiên được thay vào đầu thời kỳ thay lông, chiếc thứ năm vào thời kỳ giữa, chiếc lông thứ 10 sẽ rụng vào cuối kỳ thay lông. Theo số lượng những chiếc lông cánh đã được thay, ta có thể xác định mức độ thay lông của chim.
Quá trình thay lông có thể khác nhau. Việc thay lông chậm thường gặp ở chim đẻ nuôi lồng trong điều kiện tiểu khí hậu được điều chỉnh ổn định. Lông của chúng rụng dần dần, việc đẻ trứng không bị gián đoạn. Khi thay lông nhanh, chim có thể thay một lúc vài chiếc lông cánh và xuất hiện những khoảng da trần trên cơ thể.
→ TẢI TÀI LIỆU
Nguồn Gốc Và Đặc Điểm
Nguồn gốc
Tên khoa học: Pycnonotus jocosus
Tên gọi khác: Chóp mào, Hoành hoạch mồng, Chóp mũ đỏ, Đít đỏ
Tình trạng bảo tồn: ít quan tâm
Phân bố: Châu Á
Chào mào là một loài chim thuộc Họ Chào mào. Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae.
Đặc điểm
Chào mào có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered).
Chào mào ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì tiếng hót có từ 1 – 4 âm tiết.
Kỹ thuật nuôi
Đối với chim bổi mới bắt về, để chim hết nhát cần vài tháng để trấn an nên đòi hỏi bạn phải thực sự kiên nhẫn trong kỹ thuật nuôi. Ban đầu cần chùm kín lồng, tránh tiếp xúc nhiều nhưng phải để hé 1 khe nhỏ để nó quen dần với môi trường nhốt, sau đó tăng độ hé theo thời gian nuôi khi chim đã dần thích nghi.
Sau vài tháng nuôi nhốt thì bắt đầu cho chim làm quen với môi trường mới. Bạn cần cho chim tiếp xúc nhiều hơn bằng cách tắm cho chim, treo lồng nhiều chỗ … Mỗi lần chỉ cho ăn ít, để hết sạch mới cho thêm thức ăn vào. Bạn phải làm cho nó hiểu là mỗi khi bạn đến gần là chỉ để cho ăn, dần dần nó sẽ cảm thấy bạn không nguy hiểm, thậm chí nó có thể còn mừng khi thấy bạn. Làm được như vậy, thêm 3-5 tháng nữa là nó đã tương đối dạn dĩ.
Thức ăn của chim Chào mào là loài chim ăn trái cây, đặc biệt là các loại chính đó là chuối, đu đủ, cà rốt hấp, dâu tây, xoài.
Nên tắm chim mỗi ngày, nếu bận thì tắm 2 ngày/lần. Mùa Đông 1 tuần tắm 1 đến 2 lần và nhớ pha thêm nước ấm. Nước tắm bạn cho vài hạt muối và cẩn thận vát 1,2 giọt chanh vào để diệt giận mạt trên lông.
Cách chọn giống
Khi chọn chim phải chọn con chim lanh lợi, điệu bộ lanh lẹ. Cặp chân phải to, dài, thân hình cũng phải dài, vai nở nang, ngực ưỡn ra có lằn giữa ngực thì thường phổi to giọng chim vang. Nên nhớ những chú chim Chào mào có miệng mỏng, ngắn mới siêng hót.
Chim tốt thì mào có gốc to, khi mào dựng lên thì cạnh mào thẳng từ đỉnh xuống cổ. Yếm màu đen đậm cùng màu với mào càng dày càng tốt. Má phồng đều nhau vệt ngăn hai bên má rõ ràng. Hầu to phồng căng thì chim hót to và hay. Lưng hơi gù lưng tôm, cặp cánh gọn, lông cánh không xù ép sát vào mình không đan chéo nhau. Đùi to cẳng dài móng nhọn và cong đều. Đuôi dài và xếp gọn thành 1 cọng.
Nguồn: Wikipedia
Kỹ Thuật Làm Chuồng Nuôi Chim Cút Thịt Và Chim Cút Sinh Sản Khoa Học
Nhiệt độ thích hợp và ổn định
Nhiệt độ của chuồng nuôi quá nóng hoặc quá lạnh sẽ khiến chúng bị rối loạn trao đổi chất, giảm tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt cũng như khả năng đẻ trứng và chất lượng trứng của chim. Đối với chim cút non, mức nhiệt độ thích hợp là từ 24 – 35C, còn với chim cút đẻ, mức nhiệt là 18 – 25C.
Thoáng khí
Môi trường bên trong chuồng nuôi chim cút cần phải thoáng mát, thông gió tốt để không khí sạch được lưu thông, hạn chế tích tụ các loại khí độc hại sinh ra từ chất thải của chim. Ngoài ra chuồng nuôi phải cao ráo, tránh ẩm thấp dễ gây bệnh cho chim.
Vệ sinh sạch sẽ
Chuồng chim cút cần được thiết kế sao cho dễ dọn rửa chuồng, máng ăn máng uống được thay và cọ rửa thường xuyên, các chất thải cần được thu gom xử lý để không gây ô nhiễm môi trường.
Không gian yên tĩnh
Tổ tiên của chim cút vốn có nguồn gốc là chim hoang dã nên loài chim này có bản tính khá nhút nhát. Với thính giác và thị giác nhạy bén, chúng dễ bị kích động bởi tiếng ồn. Vậy nên chuồng chim cút nên đặt ở nơi yên tĩnh, không bị xáo trộn, có ít người lạ cũng như động vật qua lại.
Chống các động vật gây hại
Chim cút có kích thước khá nhỏ bé nên chúng dễ bị các loài động vật gặm nhấm như chuột, hoặc các động vật săn mồi như mèo tấn công và gây tổn thương. Vì thế, khi thiết kế chuồng, bà con đừng quên lưu tâm đến vấn đề này.
– Kích thước chuồng 1×0.5x2m với mật độ 20 – 25 con/chuồng.
– Chuồng có thể là các lồng nuôi làm bằng thép mạ kẽm được thiết kế thành nhiều tầng tiết kiệm diện tích hoặc là chuồng trên nền đất có quây lưới thép 1x1cm xung quanh để chống chuột.
– Nóc chuồng lót vật liệu mềm để khi chim cút giật mình nhảy lên cao thì không bị tổn thương phần đầu.
– Máng ăn, máng uống của chim có dạng dài khoảng 0.5m, kích thước 5x5cm và làm từ vật liệu dẻo như nhựa để tránh gây tổn thương cho chim, lại vừa dễ chùi rửa.
Lồng úm
Lồng úm là khu vực dành cho chim non mới đẻ dưới 10 ngày tuổi. Kích thước phổ biến của lồng úm là khoảng 1.5x1x0.5m có thể nuôi được 200 con chim non. Tuy nhiên kích thước này có thể thay đổi tùy thuộc vào quy mô của từng hộ chăn nuôi. Lồng úm không nên đặt trên nền đất mà nên đặt cao hơn mặt đất khoảng 50cm để tránh các loài gặm nhấm gây hại. Lồng được quây bằng lưới thép không rỉ loại 0.8×0.8cm, được trang bị thêm bóng đèn vừa sưởi vừa thắp sáng để duy trì thân nhiệt cho chim non.
Lồng hậu bị
Đây là khu vực dành cho chim từ 11 – 30 ngày tuổi đang trong giai đoạn phát triển. Kích thước của lồng hậu bị tương tự như lồng úm, khoảng 1.5×1.0.5m nhưng mật độ thưa hơn, khoảng 100 – 120 con/chuồng. Lồng hậu bị có cấu tạo không quá khác biệt so với lồng úm, vẫn được đặt trên cao và trang bị bóng đèn sưởi.
Lồng cút đẻ
Những chú chim cút trên 25 ngày tuổi, có khả năng sinh sản và đạt tiêu chuẩn nuôi lấy trứng thì sẽ được chuyển sang lồng cút đẻ. Kích thước của loại chuồng này khoảng 1×1.5×0.5m, mật độ 25 – 30 con mái/chuồng, có vật liệu và cấu tạo tương tự như lồng nuôi chim cút thịt.
Từ khóa tìm kiếm:
Chích Chòe Đất Có Đặc Điểm Gì Và Sinh Sản Như Thế Nào?
Chích chòe có nhiều loại bài trước chúng tôi đã Hướng dẫn cách nuôi chim chích chòe lửa hiệu quả , để hiểu hơn về loài chích chòe hôm nay chúng tôi sẽ cho bạn biết thêm về loài chính chòe đất do những người nuôi chim chích chòe lâu năm chia sẻ.
Chích chòe đất là loài chim cảnh hót hay sống và sinh sản trên mặt đất, chủ yếu là đồng cỏ, ruộng vườn hoặc ở ven rừng. Không giống như chích chòe than hay chích chòe lửa chúng có đôi chân khá mạnh để di chuyển trên mặt đất.
Khi hót chúng hót khoảng lúc 12 – 13 giờ. Buổi tối chúng lại hót vào lúc 23 giờ khuya. Vậy tại sao chúng lại hót vào những giờ “oái oăm” như vậy? lý do chính là trong thiên nhiên, chúng muốn thể hiện cảm xúc đặc biệt của mình cho các con mái khác. Và một lý do nữa, giọng hót nhỏ của chúng có thể bị át đi, nếu chúng hót cùng giờ với các loại chim hót khác.
Về đặc tính sinh sản: chúng sinh sản bắt đầu vào mùa xuân đến hết mùa hè, tức là vào khoảng tháng giêng tháng hai, đỉnh cao là tháng ba đến tháng sáu. Khoảng thời gian chim đẻ, chim mái có màu nâu sẫm, các miếng vá trắng trên thân mất đi, phần dưới mông có màu đỏ bầm.
Mỗi ổ có từ 2 – 5 quả trứng hình bầu dục có màu hơi xanh nhạt-trắng hồng hoặc lấm chấm các đốm nâu, có kích thước chiều dài trứng chừng 1,2 – 1,5 cm. Trứng được ấp khoảng 14 ngày thì nở, được 30 ngày chim non tập chuyền.
Hơn thế nữa khi chim hót chim trống còn “tạo dáng” thêm để chim mái chú ý. Các hành vi đó được kể đến như xoè đuôi, múa cánh. Có thể nói rằng, khi chim chích choè đất hót, không có con chim hót nào vừa hót vừa múa đẹp như chúng. Đó là một lý do mà hiện nay, phong trào nuôi chim chích choè đất đang được ưa chuộng vì thế hiện nay có một số dân chơi chim sử dụng chích chòe đất để nuôi chim cảnh làm giàu, việc này là ý tưởng mới để phát triển kinh tế nhờ nuôi chim.
Nguồn: chúng tôi
Bạn đang đọc nội dung bài viết Đặc Điểm Da Và Sản Phẩm Của Da Chim Bồ Câu Và Chim Cút trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!