Đề Xuất 5/2023 # Hình Tượng Học Trò Thời Chiến Tranh Trong Thơ Trần Đăng Khoa # Top 5 Like | Lamdeppanasonic.com

Đề Xuất 5/2023 # Hình Tượng Học Trò Thời Chiến Tranh Trong Thơ Trần Đăng Khoa # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Hình Tượng Học Trò Thời Chiến Tranh Trong Thơ Trần Đăng Khoa mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

(Toquoc)- Đã 37 năm chiến tranh lùi xa nhưng dư âm sâu lắng từ những dòng ký ức, những di chứng về một thời đạn bom với bao đau thương mất mát, đói nghèo, khổ nhục… vẫn còn hiện hữu quanh chúng ta, thế hệ nối tiếp nhiều may mắn hơn cha ông xưa, như một ám ảnh canh cánh không nguôi. Các dòng thơ về một thời đã khép lại đồng thời mở ra bao cảm xúc, suy tưởng cho người đọc hôm nay.

Vào những năm 60, 70 của thế kỉ XX, khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, tiến hành chiến tranh phá hoại ra toàn miền Bắc Việt Nam, đã có cả một thế hệ trẻ em – măng non đất nước lớn lên, đi học trong một hoàn cảnh bất bình thường, dưới khói lửa đạn bom ác liệt kéo dài ròng rã nhiều năm. Thơ ca của các em thiếu nhi, đặc biệt thơ Trần Đăng Khoa đã phản ánh chân thực, sinh động hình tượng học trò cùng bao cảm nhận, ước mơ của tuổi thơ về quê hương – đất nước, dân tộc – thời đại trong những năm tháng lịch sử đau thương mà hào hùng ấy.

Thơ của trẻ em thời kì này vì vậy đã mang dấu ấn đặc biệt của lịch sử. Trong đó không chỉ có hình ảnh cảnh vật gần gũi, quen thuộc cùng bao quan hệ yêu thương nơi gia đình, mái trường mà còn có cả tiếng súng, tiếng bom, tiếng hát át tiếng bom và cả tiếng khóc hờn căm trước những đau thương, mất mát phải chiến đấu đối mặt từng ngày với chiến tranh.

Nông thôn, dấu ấn thời đại trên trang thơ học trò

Như nhiều trẻ em được sinh ra ở vùng nông thôn Bắc bộ, tuổi thơ học trò của Trần Đăng Khoa đã tắm mình trong không khí ruộng đồng cùng bao sinh hoạt bình dị, gần gũi từ gia đình, làng xóm đến những ngôi trường làng… Đến với thơ Trần Đăng Khoa, ta như được sống trong bầu không khí rất riêng của làng quê Việt Nam, cảm nhận được vẻ đẹp trong trẻo, trinh nguyên, thuần khiết của một vùng quê dân dã:

Làng quê lúa gặt xong rồi Mây hong trên gốc rạ phơi trắng đồng Chiều lên lặng ngắt bầu không Trâu ai no cỏ thả rông bên trời Hơi thu đã chạm mặt người Bạch đàn đôi ngọn đứng soi xanh đầm Luống cày còn thở sùi tăm Sương buông cho đống hoang nằm chiêm bao Có con châu chấu phương nào Bâng khuâng nhớ lúa, đậu vào vai em…

(Đồng quê – 1974)

Trần Đăng Khoa đã viết rất nhiều và rất hay về vùng nông thôn gần gũi, thân thương của mình. Trường ca Khúc hát người anh hùng vớinhững câu thơ sâu sắc như máu thịt của cả đời người: Mái tranh ơi hỡi mái tranh/ Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương.

Tất nhiên trong những năm tháng này, thơ thiếu nhi còn mang cả hơi thở của cuộc sống chiến đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Hình ảnh ngôi trường, lớp học,vốn là nơi để lại cho tuổi thơ nhiều kỉ niệm, nhưng lại là lớp học phòng không, là ngôi trường sơ tán. Thế mà trong mắt nhìn trẻ em, ngôi trường ấy không có vẻ gì là bất thường của hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt:

Nho nhỏ như tổ chim Từ trong lùm tre biếc.

(Lớp học phòng không – Nghiêm Văn Đa)

Nhà thơ Tố Hữu cũng đã nói đến hình ảnh đáng yêu của các cháu bé được chia thành các tổ, nhóm khi sơ tán về vùng nông thôn: Quýt nhà ai chín đỏ cây/ Hỡi em đi học hây hây má tròn/ Nhà em mấy tổ trong thôn/ Ríu ra ríu rít chim non đầu mùa.

Với trẻ em lứa tuổi tiểu học, trong hoàn cảnh phải đi sơ tán, thiếu sự chăm sóc của bố mẹ, trước bao sinh hoạt đời sống rất khó khăn, nhiều thiếu thốn, thế mà các em vẫn được tổ chức học hành, được vui chơi. Tiếng cười con trẻ vẫn vang lên ríu ra ríu rít như những đàn chim nhỏ. Các cháu vẫn được tổ chức tham dự các kỳ thi Học sinh giỏi, thi Vở sạch chữ đẹp, vẫn cất cao tiếng hát những khi ngớt tiếng súng, những lúc không có máy bay giặc đến ném bom. Trong bài thơ Gửi bạn Chi-lê, Trần Đăng Khoa đã mượn hình ảnh hoa sen nở nơi ao trường và chú dế mèn nghểnh cổ vuốt râu, cao giọng gáy ở bờ tre góc ruộng như là một sự thách thức đối mặt với đạn bom, biểu hiện sự ngoan cường của trẻ em Việt Nam trước chiến tranh: Chúng tôi đến lớp ngày ngày,/ Mũ rơm tôi đội, túi đầy thuốc men./ Ao trường vẫn nở hoa sen,/ Bờ tre vẫn chú dế mèn vuốt râu…/ Chúng tôi chẳng sợ Mỹ đâu/ Vẫn vui vẫn hát những câu rộn ràng…

Chiếc mũ rơm dày, nặng và túi thuốc cá nhân trên vai mỗi cháu đến trường vào những năm này vốn là hình ảnh quen thuộc, nhưng đã làm nên bao cảm xúc thơ về tinh thần thời đại của người Việt Nam. Trẻ em cũng trở thành “chiến sĩ”, các em được chuẩn bị để “sống chung” với… chiến tranh, tự phòng chống, tự cứu mình trước:

Khắp nơi nơi, trên những nẻo đường Việt Nam ngày ấy, hình ảnh học trò ung dungđội mũ rơm, vai đeo túi thuốc như là biểu tượng cho cuộc sống thường nhật. Có lẽ do chiến tranh hiện diện quá lâu trở thành quen, nên không còn là nỗi ám ảnh, âu lo như những ngày đầu, kể cả với các bé gái:

Trên đường cát Có vài bạn gái Vừa đi học về Đầu đội mũ rơm Vai đeo túi thuốc Tay cầm cái cuốc Khăn quàng nở xòe trên ngực…

(Em kể chuyện này)

Trong một bài thơ ca ngợi người nữ anh hùng của quê mình- chị Mạc Thị Bưởi, Trần Đăng Khoa đã ý thức về sự tiếp nối người đi trước, thêm tự hào trước những đổi mới của quê hương. Hình ảnh nùn rơm bện dày làm nón bảo vệ trẻ em đi học dưới đạn bom, xuất hiện nhiều lần trong thơ Trần Đăng Khoa, như một sự so sánh. Một bên là hình ảnh các cháu bé nhỏ, trang bị thô sơ và bên kia là vũ khí hủy diệt, trang bị hiện đại phục vụ chiến tranh xâm lược.

Những vần thơ học trò đã thể hiện bao cảm nhận của các em. Ở đó có cả niềm tin yêu cuộc sống, các em đã hồn nhiên ngợi ca về xã hội, chế độ mới:

Thể hiện nhiều cảm nhận trong sáng về cuộc sống, tiếng thơ Trần Đăng Khoa đồng thời đã phản chiếu tâm trạng, nghĩ suy của cả một thế hệ trẻ em Việt Nam lớn lên trong khói lửa của cuộc chiến đấu:

Em đi học về/ Thấy ụ pháo giữa đồng quê/ Bao nhiêu khẩu pháo đều rê rê nòng/ Pháo vươn theo ngọn cờ hồng/ Trong tay một chú vẫy trong nắng chiều.

Trần Đăng Khoa đã nêu được sự đối lập giữa chiến tranh dữ dội ác liệt với cuộc sống bình yên tươi xanh. Không chủ ý tố cáo chiến tranh mà bằng quan sát, cảm nhận, vậy mà hình tượng thơ tự toát lên ý nghĩa lên án chiến tranh. Đạn bom dữ dội đã làm xáo trộn cuộc sống của trẻ thơ cùng bao người. Tính nhân văn, ý nghĩa thời đại chính là ở chỗ cả dân tộc đã chiến đấu để bảo vệ, giữ gìn cuộc sống đẹp tươi, cho bao bé thơ được sống an lành. Thật bình dị khi có thể chỉ là sự im lặng, trải lòng cùng lắng nghe tiếng hót của một chú chim chích chòe, trong phút giây bất chợt im ắng tiếng súng:

Ngẫu nhiên mà tiếng chim chích chòe trong thơ Trần Đăng Khoa đã vang ngân như những thanh âm của sứ giả hòa bình. Xuân Diệu nêu nhận định: với bài thơ nhỏ này, thơ Trần Đăng Khoa đã sờ được, đụng được đến những cái tinh vi lớn lao của sự sống.

Một lớp học thời chiến giữa rừng dành cho con em người M’Nông ở Tây Nguyên giữa thập niên 1960

(ảnh: Đất Việt chụp lại tại triển lãm Wilfred Burchett)

Tình yêu dành cho ngôi trường – lớp học – thầy cô – bạn bè là những tình cảm trong sáng bình thường của mọi học sinh. Nhưng trong chiến tranh, những tình cảm ấy cũng chẳng bình ổn. Các em chia tay thầy giáo không phải vì mùa hè đến, mà vì ngày mai thầy phải rời bục giảng, cầm súng lên đường thay cho những trang giáo án, dòng mực, phấn trắng… Và…nước mắt học trò đã lặng lẽ rơi trong ngày tiễn thầy đi bộ đội: ước mơ học trò thời chiến

Sáng nào bom Mỹ dội/ Phượng đổ ngổn ngang, mái trường tốc ngói/ Mặt bảng đen lỗ chỗ vết bom bi/ Thầy cầm súng ra đi/ Bài tập đọc dạy chúng em dang dở/ Hoa phượng/ Hoa phượng cháy một góc trời như lửa…

Trần Đăng Khoa làm bài thơ tiễn Thầy giáo đi bộ đội vào tháng 4/1966. Đó làthầy Nguyễn Tân Việt, thầy giáo dạy lớp 1 của Khoa, nhập ngũ năm 1966.

Thầy đi bộ đội chiều qua/ Chúng em thơ thẩn vào ra chúc mừng/ Nhớ bao tháng năm ròng, thầy dạy/ Nhìn thầy vui càng thấy thương hơn/ Chúng em lòng những là buồn/ Vẫn cười hát, để thầy còn đi xa. (Thầy giáo đi bộ đội)

Học trò tiễn thầy lên đường cố che giấu nỗi buồn, miệng vờ hát cười cho thầy vui. Thế mà không ngờ, Trần Đăng Khoa kể cho chúng ta biết là từ buổi chia tay ấy, 6 năm sau thầy Việt không về nữa, thầy vĩnh viễn đã nằm lại nơi chiến trường Tây Nam vào tháng 5/1972. Vậy là trong chiến tranh, tuổi học trò ngây thơ lại có thêm bao niềm đau,khi phải chia tay mãi mãi với những người thân yêu nhất.

Trần Đăng Khoa đành gởi nỗi nhớ thầy vào trang thơ:

Năm nay thầy trở về/ Nụ cười vui vẫn nguyên vẹn như xưa/ Nhưng một bàn chân không còn nữa…/ Thầy ngồi ghế giảng bài/ Xếp cạnh bàn đôi nạng gỗ/ Một bàn chân đâu rồi/ Chúng em không rõ…

Năm 1972, đế quốc Mỹ ném bom hủy diệt Hà Nội và miền Bắc Việt Nam. Hàng ngàn em bé, phụ nữ và những người dân vô tội bị sát hại. Cũng năm ấy, Trần Đăng Khoa gặp lại một thầy giáo cũ, thầy đã trở về từ chiến trường. Niềm hân hoan hòa cùng nỗi đau xót nơi cậu học trò nhỏ, vì chợt nhận ra:

Trở về với đôi nạng gỗ, thầy lại đến trường giảng dạy, dâng hiến trọn vẹn tuổi xuân cho đất nước. Mắt nhìn học trò sao cứ dâng lên niềm đau xót! Trần Đăng Khoa cùng bao bạn bè tự trưởng thành trong cảm xúc, thấy mình như chưa thật xứng đáng trước bao hi sinh lớn lao của cha anh:

Như một tất yếu lịch sử nối tiếp chuyển giao, thời ấy có rất nhiều học sinh từng mơ ước đượcnối tiếp cha ông đi trước, cũng sẽ cầm súng bảo vệ quê hương, một khi còn bóng giặc. Cô bé Cẩm Thơ lên 9 tuổi, (con gái nữ thi sĩ Anh Thơ) đã bày tỏ ước mơ táo bạo nhưng không kém phần ngộ nghĩnh:

Chú bộ đội/ Đi hành quân/ Tiếng bước chân/ Hòa tiếng hát/ Nghe bát ngát/ Một chân trời.

Thơ Trần Đăng Khoa cũng đã nói tới anh bộ đội với tất cả sự trân trọng, biết ơn và tin yêu. Trong trí tưởng tượng của các em nhỏ, anh bộ đội là hiện thân của người anh hùng. Các em đã xem như thần tượng để phấn đấu:

Tuy thật ấn tượng về hình ảnh lý tưởng, nhưng thơ Trần Đăng Khoa đã không tuyệt đối hóa.Ngoài tiền tuyến chú bộ đội là người anh hùng nhưng đến với các em, cứ như một người bạn thân thiết đôn hậu:

Giáo sư – tiến sĩ Vân Thanh, nhà nghiên cứu, phê bình văn học thiếu nhi thời ấy đã nhận định rằng: Ước mơ làm bộ đội của trẻ em Việt Nam, đó quả là hiện tượng đánh dấu rõ nhất đặc điểm của thời kì lịch sử ta đang sống: chúng ta phải chiến đấu!

Nếu như đề tài về cuộc sống hiện đại trước năm 1965 còn rất mờ nhạt trong văn học thiếu nhi, và hầu như rất ít xuất hiện trong tác phẩm thơ do chính trẻ em sáng tác, thì giờ đây đã được khẳng định qua thơ Trần Đăng Khoa viết về nhà trường, trẻ em miền Bắc, thời kì chống chiến tranh phá hoại. Ở đó, học sinh vừa học tập, vừa lao động đào hầm, đắp lũy, đi sơ tán, cùng tham gia tải đạn, cứu thương, giúp người lớn cứu lúa, chống hạn, chống úng, bắt sâu… làm nhiều việc tưởng chừng như vượt quá sức trẻ nhỏ:

Chúng ta đã đề cập đến âm hưởng thời đại trong những vần thơ học trò – thơ Trần Đăng Khoa. Qua đây thấy được cảnh ngộ, số phận của nhiều trẻ em trong chiến tranh. Trần Đăng Khoa đã tâm sự: Làng quê tôi với sự hy sinh không tên tuổi nhưng ngẫm ra thì vô cùng lớn lao. Tôi thực sự biết ơn cái làng quê nhỏ bé của mình đã nuôi dưỡng tôi như vậy (Từ ngọn lúa sinh ra – Báo Tiền Phong số ra ngày 16/4/1974).

Mẹ cha bận việc ngày đêm/ Anh còn đi học, mình em ở nhà/ Dặn em đừng có chơi xa/ Máy bay Mỹ bắn không ra kịp hầm/ Đừng ra ao cá trước sân/ Đuổi con bươm bướm, trượt chân, ngã nhào…

Trong bài thơ Dặn em, anh trai Trần Đăng Khoa đã cố gắng thể hiện sự quan tâm, chăm sóc dặn em Giang lên 4 tuổi với nhiều ” đừng” và ” chớ”:

Hành vi tự chăm sóc dường như thấm nhuần trong nếp sinh hoạt hàng ngày của trẻ thơ thời ấy. Từ chỗ tự lập, các em dần tự tin, cứng cỏi trong nhiều cảnh ngộ. Trần Đăng Khoa đã viết về sự hi sinh của liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, một nữ anh hùng quê mình:

Qua đây thấy được thế giới học trò của Trần Đăng Khoa và bao bạn bè cùng thời phải chịu nhiều thiệt thòi. Hẳn là để có bao niềm vui yên ả của trẻ em thì cũng nếm trải ngần ấy sự khốc liệt, nhọc nhằn trong chiến tranh, vớibao nghĩ suy và việc làm “già dặn” trước tuổi. Như cái cách tinh tế mà Trần Đăng Khoa đã cảm nhận, miêu tả thiên nhiên hay ca ngợi hòa bình, chỉ bằng một phép tương phản nhỏ:

Đó chính là hình ảnh của sự sống, cánh diều mơ ước của tuổi thơ đã ngạo nghễ vượt lên cái chết – hố bom. Như vậy, ngoài nét ngộ nghĩnh, sinh động, ngây thơ củatuổi nhỏ, thiếu nhi thời ấy cũng đã sớm trải nghiệm qua chiến tranh, sớm trưởng thành, suy gẫm, khái quát sâu sắc khi cần bộc lộ một tình cảm, thái độ. Hình tượng học trò trong thơ Trần Đăng Khoa có thêm chiều sâu và chiều rộng của tính triết lý. Nhà thơ Xuân Diệu gọi đó là Bút pháp người lớn.

Như vậy, cùng phát triển với văn học nước nhà, văn học thiếu nhi Việt Nam, đặc biệt thơ Trần Đăng Khoa thời kì này đã khái quát khá sinh động, đầy cảm nhận về hình ảnh học trò – tuổi thơ Việt Nam trong một quá trình trưởng thành đầy gay go ác liệt, các em vừa học tập, vui chơi, vừa cùng cha anh chiến đấu, không ngừng phấn đấu để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Chính cuộc đời, những đóng góp của anh bộ đội, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu văn học Trần Đăng Khoa đến hôm nay đã là một minh chứng điển hình cho sự nỗ lực, phấn đấu ấy.

Lê Huỳnh Diệu

Kết thúc bài viết về hình tượng học trò trong thơ Trần Đăng Khoa, qua đây xin được tri ân và bày tỏ, nói hộ bao người về sự ngưỡng mộ cây bút nhỏ tài năng từng được mệnh danh là thần đồng thơ ngày ấy, một Khúc hát nhỏ mạnh hơn bom đạn (Lời của nữ văn sĩ – nhà báo Pháp Ma-đơ-len Rip-phô), đãlàm cho người ta chú ý nhiều đến Việt Nam không chỉ vì Việt Nam là chiến trường ác liệt lúc bấy giờ, mà còn do đất nước Việt Nam đã xuất hiện một hiện tượng thơ trẻ em đáng tự hào. Geral Gullaume gọi đó là ” Việt Nam, hồn tôi!”, một cách đầy xúc động ( Việt Nam, hồn tôi! – Geral Gullaume. Do Xuân Diệu dịch).

Bài viết có tham khảo các tài liệu:

2000. Chuyên luận 7. Lê Huỳnh Diệu. Thiên nhiên- đất nước trong thơ thiếu nhi trước 1975. Tài liệu giảng dạy Văn học thiếu nhi.

Đọc Lại Thơ Trần Đăng Khoa – Đình Kính – Hội Nhà Văn Hải Phòng – Văn Hải Phòng – Văn Thơ Hải Phòng – Văn Học Hải Phòng

Mở đầu cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ , do nhà xuất bản Lao động ấn hành, in khổ 13 x 20, 5, dày 576 trang, là bài viết của Nhà văn Đình Kính với tựa đề “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”. Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và để bạn đọc tham khảo một cách nhìn nhận về thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết trên.

Mở đầu cuốn TRẦN ĐĂNG KHOA, TUYỂN THƠ , do nhà xuất bản Lao động ấn hành, in khổ 13 x 20, 5, dày 576 trang, là bài viết của Nhà văn Đình Kính với tựa đề “Đọc lại thơ Trần Đăng Khoa”. Được sự đồng ý của nhà văn Đình Kính, và để bạn đọc tham khảo một cách nhìn nhận về thơ Trần Đăng Khoa, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết trên.

vanhaiphong.com

Thơ Trần Đăng Khoa không xa lạ với tôi (và chắc cũng khỗng xa lạ với bạn đọc). Nhiều bài anh sáng tác đã trên 40 năm. Song giữa ngổn ngang hỗn độn của không biết bao nhiêu chủng loại nơi siêu thị thơ hiện nay trong đó chẳng ít những cách tân rối rắm, tự dưng tôi nảy ra ý định đọc lại thơ anh. Có nhiều nguyên do để đọc. Vừa muốn biết ngưòi thơ được gọi là thần đồng một thủa liệu có còn tồn tại với thời gian; vừa muốn khám phá, soi lại cảm xúc nơi mình. Và điều rất mừng là, sau bao năm đọc lại gần nửa ngàn bài thơ của cùng một tác giả mà vẫn vào, vẫn không nhàm, vẫn còn thích. Trong rất nhiều rất nhiều thơ đang đùn ra với không ít trường phái ta có, bắt chước những thứ đã lỗi thời của Tây Tàu có nhân danh làm mới, thơ Trần Đăng Khoa vẫn có chỗ đứng, vẫn có vị thế, và vẫn không bị bụi thời gian phủ mờ… Chẳng thể đòi hỏi một nhà thơ nhiều hơn cái mà họ không thể. Với những gì Trần Đăng Khoa có, anh đã góp cho nền thi ca Việt Nam một viên gạch không nhỏ. Đấy là điều đáng trân trọng.

Thơ Trần Đăng Khoa vẫn là một miền riêng, không trộn lẫn. Giống như ca khúc Trịnh Công Sơn, giai điệu bài hát khi cất lên, dù nghe ở đâu vẫn nhận ra chất nhạc của riêng một người. Đóng góp của Trần Đăng Khoa còn là chỗ ấy nữa. Viên Mai từng nói: “Làm người thì nên không có cái tôi; có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng, cậy tài… Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có cái tôi thì dễ mắc tật cóp nhặt, phô diễn…”. Còn Nguyên Hồng thì nhắc nhở: “Trên cái võ đài văn chương nghệ thuật kia, tôi không chỉ không nên bắt chước những ngòi bút có tiếng tăm của thứ văn chương thời thượng, mà ngay cả những ngòi bút cùng khuynh hướng với tôi, đã đi trước tôi, mở đường cho tôi, kích động tôi, tôi không phải là nô lệ, không là cái bóng của sự phỏng cóp”. Nhà văn chỉ có thể đóng góp cái gì đó cho nền văn học khi họ có cái gì đó là của riêng mình… Trần Đăng Khoa có cái Tôi của riêng mình trong thơ.

Thơ Trần Đăng Khoa không hề mới (theo quan niệm nào đấy), càng không lạ, chỉ dung dị trung thành với một lối nói, một lối diễn. Thơ anh chân quê, giống như cô gái làng mộc mạc, không son phấn, không giả vờ ưỡn ẹo làm duyên làm dáng phô khoe cơ thể, nhưng là một thứ duyên thầm đằm thắm, nền nã, nhiều nét đồng bãi. Vẻ đẹp toả ra một cách tự nhiên, hồn hậu, chân chất, thuần khiết, đằm lắng…

Đã ngủ rồi hả trầu?/ Tao đã đi ngủ đâu /Mà trầu mày đã ngủ/ Bà tao vừa đến đó/ Muốn xin mấy lá trầu/ Tao chẳng phải ai đâu/ Đánh thức mày để hái …/Tay tao hái rất nhẹ/ Không làm mày đau đâu/ Đã dậy chưa hả trầu? (Đánh thức trầu- 1966). Cơn giông bỗng cuộn giữa làng/ Bờ ao lở. Gốc cây bàng cũng nghiêng/ Quả bòng chết chẳng chịu chìm/ Ao con mà sóng nổi lên bạc đầu…(Cơn giông – 1972)

Người xưa quan niệm, thơ không nhất thiết cầu kỳ. Thơ cần nhất sự dung dị và cái tình. Lưu Đại Khôi đã nói: “Văn chương quý ở sự giản dị. Phàm viết văn (và cả làm thơ nữa- ĐK), những cây bút già giặn thì giản dị, ý chân thực thì giản dị, vị thanh đạm thì giản dị, khí đầy đủ thì giản dị, thần cao xa mà hàm chứa khôn cùng thì giản dị. Vì vậy, giản dị là cảnh giới tận cùng của văn chương vậy”. Bởi giản dị và không cầu kỳ, câu chữ lại khúc triết, ý tứ thì sâu xa hàm chưa khôn cùng mà thơ Đường hàng ngàn năm nay vẫn tồn tại, vẫn lan toả, vẫn làm say người đoc và vẫn không hề cũ…

Thơ Trần Đăng Khoa không là loại cô nhắc pha chế nhiều hợp chất nhằm đánh lừa dân nghiền, đến nỗi thoáng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay. Thơ anh hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây xốc, không nồng, không làm cho người ta khùng, nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ…

… Lá trầu khô giữa cơi trầu/ Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay/ Cánh màn khép lỏng cả ngày/ Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa/ Nắng mưa từ những ngày xưa/ Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan… (Mẹ ốm -1970)

Và hai mươi tám năm sau, trong hoàng hôn Hoa Lư -1998: Chiều mờ non nước cũ/ Bóng kinh thành khói bay/ Những vui buồn trận mạc/ Còn nhuốm vào cỏ cây/ …./ Đường cỏ lơ mơ nắng/ Mái tranh chìm chơi vơi/ Vài tán cau mộc mạc/ Thả hồn quê lên trời. (Hoa Lư).

Viết tới đây, tôi bất giác liên tưởng tới đêm thơ nhạc và giao lưu do Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hải Phòng tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Trên Sân khấu không lập loè đèn xanh đèn đỏ, không váy ngắn áo cộc, không bá vai bá cổ hối hả nhảy hip hốp, không khoe đùi khoe sườn, chỉ là những ca khúc cũ kỹ, cũ kỹ như những tác giả của nó, cũ kỹ như con người Trần Đăng Khoa vậy, ấy thế mà khi  Hạt gạo làng ta, (thơ Trần Đăng Khoa do Trần Viết Bính phổ nhạc), một bài thơ, một bài hát hết sức dung dị, không màu mè, không mới, không lạ và do các cháu thiếu nhi một trường phổ thông biểu diễn, nhưng hàng trăm khán giả có mặt trong Nhà hát thành phố Cảng đã im phắc, hào hứng chăm chú lắng nghe. Thì ra giá trị đích thực của thi ca nằm ở chiều sâu tâm hồn người nghệ sĩ chứ không phải là thứ màu mè hoa hoè hoa sói theo phép chồng xếp chữ đơn thuần. Mới hay, văn chương đích thực, văn hoá đích thực thì tồn tại mãi. Cái gì nhân danh văn hoá mà không văn hoá, dù vờn ve mỵ người tới mấy chẳng thể đánh lừa được sự thông tuệ của thời gian, tất yếu bị đào thải, hoặc nếu tồn tại, chỉ là thoáng chốc do bị ngợp, chưa kịp phân định mà thôi. Tôi muốn bạn đọc bớt chút thời gian lướt lại bài thơ mà người viết bài này cho rằng là một trong những bài thơ hay của Trần Đăng Khoa. Hay, bởi cái đọng lại cuối cùng nơi bài thơ vẫn là chữ TÌNH .

Hạt gạo làng ta/ Có bão tháng Bảy/ Có mưa tháng Ba/ Giọt mồ hôi sa/ Những trưa tháng Sáu/ Nước như ai nấu/ Chết cả cá cờ/ Cua ngoi lên bờ/ Mẹ em xuống cấy… (1969).

Không cầu kỳ. Rất chân thật. Bởi vậy rất cảm động. Đọc nhiều lần vẫn cảm động. Quả như Tố Hữu khi nhận định về thi ca, đã viết: “Bài thơ hay làm cho người ta không thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người… Thơ là tiếng nói tri âm”. Hạt gạo làng ta, với tôi là tiếng nói tri âm! Trần Đăng Khoa khiêm nhường cho rằng Hạt gạo làng ta bay được cao, bay được xa, được chu du khắp đó đây là nhờ nhạc của ông Bính cõng đi. Đúng một phần. Loại trừ tác dụng lan toả trong một giao diện khá rộng nhờ sự chuyển tải  có hồn trong một sức sống mới của âm nhạc, Hạt gạo làng ta đủ tư cách sừng sững đứng độc lập bằng vị thế là một thi phẩm đi cùng thời gian…

Thơ không cốt ở xác chữ  mà cốt ở hồn chữ. Chữ là phương tiện để tác giả gửi hồn vào đó. Và khi ấy, lẽ đương nhiên hồn người hồn chữ quyện nhập vào nhau làm một. Người viết không xúc động, không tâm, chỉ muốn phô diễn sự lạ sao có khả năng thổi hồn vào các con chữ? Sự “cưỡng hiếp” ấy chỉ cho ra đời những hình hài nhem nhuốc, gàn dở. Và đó nhất quyết không thể là thơ. Làm lạ thơ đâu khó. Ăn cơm bằng bát chuyển qua xúc cơm trong cốc, với những người có nghề, dễ ợt. Mục đích cuối cùng của thơ là hay chứ không phải là lạ. Thể hiện bài thơ bằng cách kiểu gì đều do cái hồn, cái tâm, sự lịch lãm vốn có của nhà thơ và điều chất chứa trong lòng muốn phô ra, muốn giãi bày quyết định. Điều ấy nhiều khi nằm ngoài dự định người viết. “Tôi để mặc bài thơ chọn lấy thể thơ”– J.Seervielle. Câu thơ hay, bài thơ hay chẳng phải tự dưng mà có. Đó là thứ trời cho. Nhưng để chộp được cái thứ ngọc quý giá trời phú ấy, trong mỗi nhà thơ phải luôn túc trực ý thức nghệ sĩ, phải túc trực ý thức sáng tạo. “Các thần thánh ban cho ta câu thơ thứ nhất, nhưng chính ta phải dụng công làm lấy câu thơ thứ hai”- P. Val ry

Tiếng chim vách núi nhỏ dần/ Rì rầm tiếng suối khi gần khi xa/ Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng (Đêm Côn Sơn- 1968)

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng, câu thơ bật ra tưởng chừng ngẫu nhiên, chỉ là một thoáng cảm bằng tai, nhưng đọc kỹ cả đoạn, cả bài, không khó khăn nhận ra sự bất chợt ấy bắt đầu từ sự rung động của trái tim, sự bất chợt ấy có vẻ vô thức, nhưng lại là tích góp đã được chuẩn bị của ý thức. Bởi thế câu thơ trở nên có hồn, có thần.

Và hai mươi bốn năm sau, sau Đêm Côn Sơn là  buổi chiều ở một thành phố cổ nơi quê người: Thành xưa đổ bóng vào trời/ Khói sương lãng đãng – Một thời đã xa/ Tháng năm lừng lững đi qua/ Chỉ còn mấy đỉnh tháp già ngẩn ngơ/ Chiều buông ngọn khói hoang sơ/ Tiếng chuông ngàn tuổi tỏ mờ trong mây… (Qua xuzddan – 1992). Rồi mây nước ở Trường Sa: Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng/ Sỏi cát bay như lũ chim hoang/ Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu/ Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…/ Những giai điệu ngang tàng như gió biển/ Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi/ Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa/ Cứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời. (Lính đảo hát tình ca trên đảo)

Chẳng rối rắm, không có câu chữ lạ. Bài thơ hiện ra tự nhiên, tự nhiên như cuộc sống vốn thế, tự nhiên như thể người làm thơ không có ý định làm thơ. Mộc mạc như bờ ao gốc rạ, chân chất tựa hạt đậu củ khoai, mà sao gần gũi, thân thiết, hoà đồng, gợi mở thế ? Phải chăng nhờ cách viết, cách cảm rất chân thành đồng quê đó mà bao năm rồi thơ Trần Đăng Khoa cứ bỏ bùa mê vào nhiều thế hệ bạn đọc để người viết ra những câu thơ dung dị nhưng cao sang ấy trở thành một thương hiệu có giá?

Khi trích những câu thơ trên, tôi chợt nhớ đến ý kiến của một người Nam ta, ông Ngô Thì Nhậm: “ Thơ mà quá cầu kỳ thì sa vào giả dối, quá trau chuốt thì sa vào xảo trá, hoang lương hiu hắt thì sa vào buồn bã. Chỉ có thuần hậu giản dị, thẳng thắn không giả dối không xảo trá, không buồn bã mà rốt cục chú trọng đến sự ngăn chặn điều xấu, bảo tồn điều hay, mới là những đặc sắc chính của thơ…” Và ý kiến một ông Tây, ông Yannis Rýtsos : “Kết quả của một tác phẩm nghệ thuật hay là làm cho chúng ta cảm thấy sảng khoái và khiến cho chúng ta muốn sáng tạo ra một cái gì đó. Chúng ta muốn yêu và muốn đựơc yêu”. Dù ở gầm trời nào, dù ở thời buổi nào, dù tây hay ta, quan niệm về thơ hay cũng chỉ là một.

Trần Đăng Khoa là gã có tài quan sát, quan sát rất tinh tế. Từ hương nhãn, hoa bưởi, tiếng chim chích choè, tiếng trống làng, tiếng máy cày xình xịch, đến chiếc ngõ nhỏ, cánh đồng làng, cây dừa, thầm chí cả bé Giang tập xe đap, đánh tam cúc với mèo; rồi một bông hoa duối, một cây xoan, một bến đò… cũng thành thơ, lại là thơ không xoàng thì giỏi quá!

Sự quan sát đó, nếu trước đây chỉ loanh quanh trong góc sân, vườn cải, ao nhà; hình ảnh quan sát bó gọn, tươi non trong khuôn khổ con ong, cái kiến, cây dừa, hạt gạo, cây đa, cánh diều, thì theo năm tháng, theo tỉ lệ thuận với dung nạp kiến thức, văn hoá và bằng sự dậy thì rồi hồi xuân của cảm xúc, càng về sau đã rộng lớn hơn, khái quát, nhân loại hơn, vừa nồng đượm, lại cũng vừa đằm lắng.

… Tôi đứng lặng trước em/ Không phải trước lỗi lầm biến em thành đá cuội/ Nhớ vận nước có một thời chìm nổi/ Bắt đầu từ một tình yêu/ … Có những lỗi lầm phải trả bằng cả một kiếp người/ Nhưng lỗi lầm em phải trả bằng máu toàn dân tộc / Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc/ Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay. (Trước đá Mỵ Châu- 1974). Hoặc trước nỗi mong manh của những kiếp người: … Ôi thiên nhiên cảm ơn người nhân hậu/ Những so le, người kéo lại cho bằng/ Ít nhất cũng là khi nằm xuống/ Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vầng trăng../ … Tôi đi giữa nổi chìm bao số phận/ Người xưa vẫn đây mà, có xa cách chi đâu/ Tôi thầm gọi. Sao không ai lên tiếng/ Chỉ hoang vắng dưới chân và sương khói trên đầu…/ … Trước thiên nhiên con người như khách trọ/ Như ảo ảnh chập chờn thoáng đến, thoáng lìa xa/ Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác/ Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga… ( Ở nghĩa trang Văn Điển- 1986).

Trần Đăng Khoa có nỗi đau chứ! Nhưng anh không hằn học, mà thơ anh là sự xót xa trong nỗi đồng cảm và sẻ chia. Tôi cho rằng thái độ ứng xử và cách nhìn của người làm thơ quyết định tính nhân văn của thơ!

Trước những biến động của nhân loại, Trần Đăng Khoa viết:

Thời gian vẫn đi lạnh lùng khắc nghiệt/ Có kiệt tác hôm nay, mai đã bẽ bàng rồi/ Bao thần tượng ta tôn thờ cung kính/ Mưa nắng bào mòn, còn trơ lại đất thôi/

Ở nơi nào kia chiến tranh đang gầm rú/ Những quốc gia nào đang thay ruột đổi ngôi/ Trái đất mỏng manh và đáng thương biết mấy/ Trước những mưu mô, toan tính của con người… (Mátx cơ va, mùa đông năm 1990)

Nhiều người cho rằng thơ Trần Đăng Khoa có hai phần, phần thơ trẻ con và phần thơ người lớn. Tôi không nghĩ có sự rạch ròi đứt đoạn như vậy. Đọc thơ anh, tôi nhận ra sự đồng nhất liền mạch trong cảm xúc, trong suy tưởng và cả sự liền mạch trong cách diễn đạt, cách nói, cách kể, cách cấu trúc thơ…(mà các nhà lý luận vẫn gọi là thi pháp). Có điều phần thơ sau này, ý tứ sâu xa hơn, thâm hậu hơn nhuần nhị hơn, và bởi thế nói được nhiều điều hơn. Càng không thể nói thơ Trần Đăng Khoa viết khi còn nhỏ hay hơn thơ viết khi anh đã lớn. Nhận định như vậy là chủ quan, thiếu công bằng. Mảng thơ sau này của anh, đặc biệt là mảng thơ viết về người lính khi anh là ngưòi lính, và mang thơ viết về nhân tình thế thái khá đặc sắc và có nhiều đóng góp.

Ta ngự giữa đỉnh trời/ Canh một vùng biên ải/ Cho làn sương mong manh/ Hoá trường thành vững chãi/…   Lán buộc vào hoàng hôn/ Ráng vàng cùng đến ở/ Bao nhiêu là núi non/ Ríu rít ngoài cửa sổ/  Những mùa đi thăm thẳm/ Trong mung lung chiều tà/ Có bao chàng trai trẻ/ Cứ lặng thinh mà già… (Đỉnh núi- 1998)

Gửi bác Trần Nhuận Minh là khúc tâm sự của người đã từng trái, qua rồi những gì ngộ nhận, non trẻ; là lời tự bach của kẻ đã nhận biết mọi lẽ ở đời, với những gì là thật, những gì là phù phiếm. Là nỗi niềm của kẻ tu hành gần đắc đạo đã ngộ nhiều sự. Tôi cho rằng đây là  bài thơ hay, bình dị mà lắng đọng, nhiều chiêm nghiệm, phiêu diêu mà sâu xa, lắm nghĩ ngợi… Bác làm bông lau ngàn/ Thả hồn vào hoang vắng/ Khi buồn thì hát ca/ Lúc vui thì im lặng/  Em quẩy bầu trăng gió/ Bác gánh bao nỗi người/ Sóng đôi mà đơn độc/ Đi mang mang trong đời/ Giờ thì em đã chán/ Những vinh quang hão huyền/ Muốn làm làn mây trắng/ Bay cho chiều bình yên/…/ Đất trời thì chật hẹp/ Làng quê thì mênh mông/ Thung thăng em với bác/ Ta cưỡi thơ ra đồng (1998). Sao có thể nói thơ ở giai đoạn sau này của Trần Đăng Khoa không hay được! Gửi bác Trần Nhuận Minh, một thi phẩm ngắn gọn mà chất chứa, ủ ấp bao nỗi niềm. Đọc rồi cũng thấy nao nao…

Để kết thúc những câu chữ nghĩ sao viết vậy của mình, tôi cho rằng cái làm nên giá trị tác phẩm thi ca nói riêng và văn chương nói chung, hình như chỉ ý thức công dân ở người viết không thôi chưa đủ. Có điều ấy cũng đã là đáng quý, đã là đáng trân trọng. Nhưng để tác phẩm cao hơn, bao quát hơn và tồn tại lâu dài, ngoài ý thức công dân, người viết phải có thêm phẩm chất và ý thức nghệ sĩ. Mừng là, theo cảm nhận chủ quan của riêng người viết bài này, thơ Trần Đăng Khoa có  ý thức ấy. Và chính phẩm chất và ý thức nghệ sĩ ở người cầm bút, khiến thơ anh có thể chiềng ra mà đương đầu trong sự đào thải nghiệt ngã, nhưng công tâm và sòng phẳng của thời gian…

ĐK

Khám Phá Khoa Học : Chim

I. Mục đích – yêu cầu:

II. Hoạt động tích hợp:– Hát múa “Con chim non”– Tạo dáng “Chim bay”– Chơi trò chơi: Đội nào nhanh hơn, bé khéo tay – Tạo hình: Làm tranh cát, trang trí, …. con chim– Toán so sánh chim : to hơn, nhỏ hơn

III. Chuẩn bị:– Hai lồng chim (chim chào mào và chim sáo)– Khu vườn để đặt 2 lồng chim .– Bộ tranh về quá trình phát triển của con chim– Các hình ảnh Powepoint về một số loài chim, quá trình sinh trưởng và phát triển con chim.– 6 tổ chim, giấy VS, tranh và sách tranh cho trẻ chơi trò chơi.– Các bài hát: `Con chim non” của Lý Trọng, “Chim mẹ chim con “, liên khúc về các loài chim.

IV. Tổ chức hoạt động:

Hoạt độngHoạt động của côHoạt động của trẻ

Hoạt động 1:Hát về con chim– Cô cho trẻ hát bài “con chim non” của Lý Trọng– Trò chuyện: + Con vừa hát bài hát gì? + Con biết gì về con chim ?– Cô nói: + Các bạn vừa kể được một số hiểu biết về con chim nhưng chưa đầy đủ.Trong thiên nhiên có rất nhiều loài chim khác nhau, mỗi loài có 1 đặc điểm khác nhau về hình dáng, màu lông, tiếng hót. – Hôm nay, cô cháu mình cùng khám về con chim, các cháu có thích không nào?– Trẻ đứng lên múa hát cùng cô– Trẻ trò chuyện với cô

– Trẻ lắng nghe

Hoạt động 2:Bé cùng khám về đặc điểm, hoạt động, thức ăn, sinh sản, ích lợi và vòng đời phát triển của con chim– cho trẻ vào khu vườn để khám phá chim sáo và chim chào mào.– Cô gợi ý cho trẻ quan sát thảo luận trong vòng 3 phút về đặc điểm, hoạt động, môi trường sống, thức ăn, sinh sản, vòng đời phát triển của con chim.– Sau khi thảo luận xong cô cho trẻ nhận xét những gì mình vừa thảo luận? – Lần lượt xuất hiện 2 lồng chim và hỏi trẻ : + Các con nhìn xem cô có con chim gì đây? + Thế con chim sáo có những đặc điểm như thế nào?+ Nó thích ăn gì?+ Con chim sáo sống ở đâu?+ Con chim sáo vận động như thế nào? + Con chim sáo nó đẻ con hay đẻ trứng?+ Con chim sáo nó hót như thế nào? ( Cô khái quát lại) Sau đó tiếp tục cho trẻ khám phá về chim chào mào ( Đặt câu hỏi tương tự như với chim sáo)– Vừa rồi, các con đã nói lên đặc điểm của chim chào mào và chim sáo bạn nào cho cô biết điểm giống nhau và khác nhau của 2 con chim này?– Trẻ làm chim bay và ngồi lại thành 2 nhóm

– Trẻ trả lời

– Trẻ lắng nghe .

Hoạt độngHoạt động của côHoạt động của trẻ

– Mời 1-2 trẻ trả lời– Cô khái quát lại:* Giống nhau: Nó đều có đầu, có mình, đuôi, cánh và bay được, nó đều thích ăn thóc, gạo, côn trùng và trái cây , đẻ trứng….* Khác nhau: – Chim sáo

Cách Nuôi Chim Yến Phụng Sinh Sản Theo Khoa Học

Cách nuôi chim yến phụng sinh sản

1. Lựa chọn chim yến phụng

Dựa vào nhu cầu chơi chim cảnh hay nuôi chim đẻ mà chọn chim sao cho thích hợp. Nếu như nuôi vào mục đích sinh sản thì không nên chọn chim có bộ lông màu vàng, hoặc trắng, mắt màu đỏ, vì hai loài này có xu hướng đẻ ít mà nên chọn những em chim lứa mắt tròn, to, đen láy, chân hồng hào, thân hình chắc, ít cắn.

Phân biệt yến phụng trống – mái hãy làm cách sau đó là nhìn vào mũi chim: chim non mũi con trống có màu hồng tươi, mũi chim mái thì trắng đục như lòng trắng trứng. Khi chim lớn thì con trống sẫm màu chuyển sang xanh dương sẫm, còn với những con chim mái trưởng thành mũi có màu trắng, hơi nâu.

Nếu mua chim đẻ đến các địa chỉ uy tín hỏi mua chim nào đang nuôi con,mua về để ấp.

2. Chuồng chim

Khi làm chuồng cho chim yến phụng cần quan tâm và phải thiết kế 2 phần: phần chim ở và phần sân chơi. Phần chim ở cần làm thoáng, rộng rãi để dễ dàng đưa thức ăn vào cho chim. Nếu bạn nuôi chim theo bầy, cần chia và ngăn cách các tổ với khoảng cách hợp lí và đều nhau. Phần sân chơi cho chim nên được bố trí nhiều cột kèo, thoáng để chim tự do bay nhảy, cặp đôi và tắm nắng. Cuối cùng, yêu cầu tối thiểu là chuồng chim luôn luôn sạch sẽ, có đầy đủ máng thức ăn và nước uống cho chim.

3. Thức ăn cho chim yến phụng

Nuôi chim yến phụng rất dễ dàng bởi chúng không quá kén ăn. Bạn có thể cho chim ăn kê, lúa… hằng ngày. Nếu chú chim của bạn đang nuôi con, bạn cần tăng thêm lượng thức ăn cho chúng.

4. Tắm cho chim yến phụng

Chim yến phụng bạn nên thường xuyên tắm bởi chim thích tắm. Trung bình cứ 3 ngày tắm một lần, có thể cho chim tắm trong đĩa nước nhỏ, nước sẽ pha thêm xíu muối, chim vừa tắm mát, sát trùng bên ngoài giảm nguy cơ mắc bệnh.

5. Ghép đôi cho chim

Bạn có thể ghép các con trống và con mái trong đàn với nhau để chúng làm quen, cặp đôi và sinh sản. Cả chim yến phụng bố và mẹ đều chăm sóc trứng và con non. Khi chim non cứng cáp, bạn có thể tự tin tách chúng ra ở riêng, làm nên một thế hệ mới. Cứ thế, chuồng chim yến phụng của bạn sẽ phát triển dồi dào về số lượng.

Wiki Cách Làm

Bạn đang đọc nội dung bài viết Hình Tượng Học Trò Thời Chiến Tranh Trong Thơ Trần Đăng Khoa trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!