Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Nhím Sinh Sản Hiệu Quả # Top 12 Like | Lamdeppanasonic.com

Đề Xuất 3/2023 # Kỹ Thuật Nuôi Nhím Sinh Sản Hiệu Quả # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Kỹ Thuật Nuôi Nhím Sinh Sản Hiệu Quả mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1.Chọn mua nhím giống: Người mua cần chú ý phải mua nhím ở những địa chỉ tin cậy, bảo đảm là loại nhím đã được thuần hoá, tránh mua phải nhím rừng vì nhím rừng rất khó chăm sóc và sinh sản. Đặc biệt, nhím pahỉ có lý lịch, nguồn gốc rõ ràng và phải có giấy kiểm dịch, chứng nhận của kiểm lâm ( nhím là động vật thuộc đối tượng bảo tồn ), vì vậy, nếu mua nhím mà không có giấy chứng nhận là vi phạm pháp luật và sẽ bị thu hồi.

2. Phân biệt nhím đực, nhím cái: Lúc nhím còn nhỏ, đặt nhím nằm ngửa, dùng 2 ngón tay vạch lỗ sinh dục ra, thấy gai giao cấu lộ ra là nhím đực, không thấy là nhím cái. Khi nhím trưởng thành, nhím đực mỏ dài, đầu nhọn, thân hình thon dài, đuôi dài hơn con cái, tính hung dữ, hay xù lông, rung chuông, đạp chân phành phạch để tấn công đối phương. Nhím cái mỏ ngắn, đầu hơi tròn, thân mình mập và ngắn hơn con đực, đuôi ngắn, tính hiền lành, chỉ hung dữ lúc đẻ. Bắt nhím cho vào rọ hẹp, nhấc lên dùng ngón tay gãi nhẹ vào cơ quan sinh dục cách hậu môn 2 – 3cm, nếu thấy dương vật thòi ra là nhím đực, nếu không là nhím cái.

3. Tỷ lệ đực cái: Thông thường do giá nhím giống trên thị trường quá cao do đó các hộ gia đình chỉ đầu tư 1 đực, 1 cái cho phép là 1 nhím đực/ 5-8 nhím cái. Do vậy, để giảm chi phí và tăng nhanh số lượng con trong đàn tuỳ theo khả năng mà ta đầu tư cho thích hợp.

Nên cho con cái phối giống khi 10 – 12 tháng tuổi. Thời gian động đực thường kéo dài 3 – 4 ngày, thời điểm phối thích hợp là 2 ngày sau khi nhím cái động dục. Khi động dục con cái thường có các biểu hiện: đi loanh quanh trong chuồng, hít ngửi liên tục. Nếu ta động vào người, chúng đứng yên và cong đuôi lên, đôi khi bỏ ăn. Còn con đực củng nhảy lăng xăng và hít ngửi liên tục, chân cào liên tục xuống nền chuồng rồi rít lên. 4. Cách cho phối giống: Khi thấy nhím cái có biểu hiện động dục thì bắt nhím đực thả vào ô nhốt nhím cái cho chúng phối trong thời gian 4 – 6 ngày. Nếu nhím cái đang nuôi con thì bắt nhím con ra chỗ khác để trách nhím đực cắn chết nhím con. Sau mỗi lần phối giống cần bổ sung thêm thức ăn giàu đạm, chất béo và giá đỗ cho nhím đực . Mỗi con đực chỉ nên cho giao phối với không quá 8 con cái và luôn luân chuyển đực cái để tránh cận huyết.

5. Thức ăn và cho ăn: Nhím là loài ăn tạp, vì thế, thức ăn cho nhím rất đa rạng như: côn trùng, giun, ốc, cá, rễ, lá, mầm cây, rau, củ, quả, kể cả những loài chát, đắng… Bình thường nhím ăn 2kg thức ăn/con/ngày. Nhưng khi nhím đẻ cần bổ sung thêm thức ăn tinh nhiều chất đạm, chất béo, chất bột, đường… để nhím con mau lớn, nhím mẹ đỡ mất sức, vì vừa phải tiết sữa nuôi con vừa mang thai.

6. Nước uống: Nhím ăn rau, củ, quả nên ít uống nước, nhưng cũng phải có đủ nước sạch cho nhím uống tự do. Trung bình 1lít/5con/ngày. Nhím thương uống nước vào buổi sáng và buổi trưa. Nhím không thích tắm ướt mình, nếu bị ướt nhím sẽ rùng mình và vung lông liên tục không tốt.

7. Chuồng nuôi: Nuôi nhím còn dễ hơn cả nuôi lợn, thậm chí có thể nuôi cả trên sân thượng nhà cao tầng. Diện tích chuồng nuôi nhím không cần rộng lắm, trung bình 1m2/con. Chuồng nuôi nhím nên làm nửa sáng, nửa tối, không cần ánh sáng trực tiếp, tránh mưa tạt và nắng nóng, bảo đảm khô sạch, thoáng mát. Nền và sân chuồng làm bằng bê tông dày 8 – 10cm, nghiêng khoảng 3 – 4/%, để thoát nước và để nhím không đào hang chui ra… Xung quanh khu chuồng rào bằng lưới thép B40, cao trên 1,5m.

Nhím thích ở hang nhưng không nên làm hang ngầm dưới đất, ta có thể làm hang giả cho nhím bằng tole uốn cong hoặc bằng ống cống phi 50 – 60cm, để nổi trên nền chuồng, dễ vệ sinh, sát trùng. Trong chuồng nên để vài khúc gỗ, xương hoặc đá liếm để nhím mài răng và không cắn phá chuồng. Tuy nhiên, người chăn nuôi cần chú ý xương phải được luộc kỹ, bỏ hết gân, thịt và tuỷ.

8. Phòng bệnh: Nhím có khả năng đề kháng tốt, ít bị dịch bệnh, nhưng củng có mắc một số bệnh thông thường:

– Bệnh ký sinh trùng ngoài da do ve, mò cắn gây nên ghẻ lở, ta có thể dùng thuốc bôi hoặc nhím tự liếm cũng khỏi. Để phòng bệnh ký sinh trùng ngoài da, ta nên vệ sinh sát trùng chuồng và xung quanh chuồng mỗi tháng 1 – 2 lần.

– Bệnh đường ruột: Do khẩu phần thức ăn ta cung cấp không gây đủ như ngoài thiên nhiên nên nhím có thể bị tiêu chảy, trong trường hợp đó, ta có thể dùng thuốc trị tiêu chảy hoặc bổ sung thêm thức ăn đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ rau, rễ dừa… Để phòng bệnh tiêu chảy, ta nên cân đối khẩu phần thức ăn đầy đủ cho nhím, không nên cho nhím ăn các loại thức ăn ẩm mốc, hôi thối, bẩn thỉu… 9. Hiện tượng nhím không sinh sản: Nhím được 12 -18 tháng tuổi là có thể phối giống và sinh sản, nếu quá thời gian trên mà thấy nhím không động duc, phối giống đẻ có thể là do các nguyên nhân sau đây: chọn giống không tốt ( có thể cả 2 con cùng là đực hoặc đều là cái ), khâu chăm sóc, nuôi dưỡng, đặc biệt là ghép đôi cho giao phối chưa đúng kỹ thuật.

10. Giá nhím: Hiện nay do cung cung không đủ cầu làm cho giá nhím giống trên thị trường rất cao ( trên dưới 10 triệu đồng cho một cặp 3 – 4 tháng tuổi).

Cách Nuôi Nhím Thịt &Amp; Nhím Sinh Sản. Thức Ăn Cho Nhím. Xây Chuồng Nhím

Nhím vốn là loài động vật gặm nhấm hoang dã được con người thuần dưỡng thời gian gần đây. Trong tự nhiên vẫn có số lượng lớn nhím hoang sống ở vùng đồi núi, phân bổ chủ yếu ở các tỉnh như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Đắc Lắc. Nuôi nhím cho giá trị kinh tế cao. Không chỉ có thịt nhím thơm ngon, nhiều nạc ít mỡ, mà dạ dày, gan, ruột già và cả phân nhím đều có tác dụng như những bài thuốc chữa bệnh.

Nhím có các đặc điểm ngoại hình như sau: nhím đặc trưng bởi bộ lông có thể dài đến 30cm, vừa cứng vừa nhọn mọc từ phần giữa lưng trở ra sau đuổi. Nhím đực có mỏ và đuôi dài hơn nhím cái, thân hình thon dài, tính tình hung dữ, sẵn sàng đánh nhau với con được khác để bảo vệ lãnh thổ. Nhím cái đầu hơi tròn, thân hình quả trám, đuôi ngắn, thường mập hơn con đực và có 6 vú nằm ở 2 bên sườn.

Về tập tính sinh sống, nhím có tính gia đình rất cao. Nhím đực hay ghen, chỉ chấp nhận sống cùng những nhím con do nó đẻ ra và sẵn sàng cắn đến chết nhím con hay nhím đực khác. Không thể nhốt chung 2 hoặc nhiều nhím đực cùng một chuồng. Kể cả nhím đực con khi lớn lên cũng sẽ bị tấn công bởi nhím bố. Về tập tính sinh sản, nhím không giao phối đồng huyết. Nhím đực sẽ không giao phối với nhím cái cùng bầy đàn của nó trước đây.

Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Nhím Thịt

Chọn con giống

Chọn được nhím giống ưng ý là điều khá khó khăn vì số nhím giống thuần hóa hiện nay chưa nhiều, sau trào lưu nuôi nhím năm 2011 nhiều hộ gia đình lỗ nặng phải bán tống bán tháo nhím giống đi, khiến số lượng cơ sở cung cấp nhím giống chất lượng giảm rõ rệt. Tốt nhất bà con nên chọn mua nhím giống ở cơ sở nuôi lâu năm, vì nhím sau nhiều đời đã được thuần hóa hoàn toàn, dễ chăm sóc hơn nhím hoang dã mới bắt về nuôi.

Chuồng Trại

Nhím thích sống nơi yên tĩnh, vì vậy bà con nên đặt chuồng nhím tránh những nơi đông người ồn ào, gần nhà máy, trường học, chợ búa hay khu dân cư đông đúc. Khu vực chuồng nuôi nhím nên hạn chế người lạ, trẻ em hay các động vật khác lui tới. Chuồng hướng về phía đông nam để ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Chuồng không nên để ánh sáng chiếu trực tiếp mà nửa sáng nửa tối, luôn khô ráo và thoáng mát vì nhím rất ghét bị ướt.

Bà con lưu ý thiết kế chuồng nhím theo dạng như ô bàn cờ kích thước chiều rộng khoảng 1 – 1.5m, chiều cao 1 – 1.2m, chiều dài 1.5m, kèm lối đi rộng khoảng 1m để tiện chăm sóc nhím. Thành chuồng có thể xây bằng gạch hoặc lưới sắt. Về nền chuồng, lựa chọn tốt nhất là làm nền chuồng bằng bê tông hoặc gạch, nếu chuồng nền đất nhím sẽ đào hang phá hoại. Nền chuồng nghiêng khoảng 3 – 5 o kèm rãnh để thoát nước. Máng ăn, máng uống đặt trong sân chuồng có kích thước 20 x 25cm x 20cm để nước vung vãi không làm ướt nền chuồng. Nhím thích ở hang nên bà con hãy xây hang giả cho nhím bằng ống nước đường kính 50 – 60cm gắn cố định trên nền chuồng.

Thức ăn và chăm sóc

Nhím là loài ăn tạp, thức ăn của chúng gồm rau củ, lá quả, kể cả rễ cây, côn trùng, ốc, giun đất, sâu bọ… Bà con nên cho nhím ăn 2 bữa/ngày gồm bữa trưa và bữa chiều tối. Khẩu phần ăn thông thường cho mỗi con khoảng 2kg thức ăn/ngày, trong đó bao gồm thức ăn thô như các loại lá, thức ăn tinh như ngô, sắn, thức ăn giàu vitamin như ổi xanh, chuối xanh và thức ăn khoáng như muối hay xương động vật. Các thức ăn này cần được rửa sạch và thay đổi thường xuyên để đảm bảo đủ chất dinh dưỡng cho nhím. Về nước uống, mỗi ngày một con nhím uống khoảng 0.2 lít/ngày.

Cách phòng bệnh cho nhím

Để nhím khỏe mạnh, bà con cần giữ vệ sinh chuồng trại, không để chuồng trại ẩm ướt hay cáu bẩn. Khu vực chuồng trại cần được quét vôi hoặc phun thuốc diệt khuẩn theo định kỳ. Thức ăn cho nhím cũng cần đảm bảo vệ sinh, đầy đủ chất dinh dưỡng và tuyệt đối không dùng thức ăn ôi thiu, ẩm mốc.

Nhím có sức đề kháng cao, ít khi bị dịch bệnh. Đôi khi nhím có thể mắc phải những bệnh như bệnh ký sinh trùng ngoài da (do ký sinh trùng cắn gây ghẻ lở) và bệnh đường ruột (bị tiêu chảy do khẩu phần ăn không vệ sinh hay chất lượng kém). Hai bệnh này tương đối dễ chữa, chỉ cần bôi thuốc và điều chỉnh chế độ ăn uống cho nhím.

Hướng Dẫn Kỹ Thuật Nuôi Nhím Sinh Sản

Mô hình nuôi nhím sinh sản có hầu hết những điểm tương đồng như nuôi nhím thịt, chỉ khác một số điểm như sau:

Chọn nhím giống

Bà con chọn nhím đực, cái từ các đàn khác nhau. Nhím đực cần mập mạp, sức khỏe tốt, năng động và hung dữ. Nhím cái có sức khỏe tốt, mắn đẻ, phàm ăn, nuôi con khéo và tính tình hiền lành. Nếu nuôi với số lượng nhiều, bà con tốt nhất nên đánh số và ghi chép lý lịch của từng con nhím để tránh nhầm lẫn khi ghép đôi giao phối.

Chuồng trại

Bà con nuôi con đực giống và con cái giống riêng, mỗi con một ô chuồng và chỉ ghép đôi giao phối khi chúng có biểu hiện động dục, thời gian ghép đôi lâu hay ngắn tùy thuộc vào tỷ lệ phối giống thành công hay chưa. Nhím cái mang bầu nên được nhốt riêng với nhím đực để tiện nghỉ ngơi. Nhím con mới đẻ sẽ ở chung với mẹ cho đến khi cai sữa. Nhím nhỏ và nhím hậu bị có thể nhốt chung trong một ô chuồng và phân theo lứa tuổi.

Quy trình sinh sản

Thời gian mang thai của nhím cái kéo dài 90 – 95 ngày. Nhím thường sẽ đẻ vào buổi đêm, sau khi nhím con ra đời, nhím sẽ thường ủ con dưới bụng. Nhím con một tuần tuổi mới bắt đầu chạy ra khỏi bụng mẹ. Nhím con bú mẹ trong vòng 1 tháng rồi bắt đầu cai sữa. Nhím con khoảng 30 – 45 ngày tuổi là có thể tách khỏi mẹ, để chuẩn bị cho lần động dục tiếp theo của nhím mẹ.

Thức ăn cho nhím sinh sản

Nhím đực sau mỗi lần phối giống cần được bổ sung thức ăn giàu protein, chất béo, các loại mầm, rễ cây, giá đỗ để phục hồi sinh lực cho lần sinh sản tiếp theo. Nhím cái khi mang thai cũng cần chất dinh dưỡng để dưỡng thai và tiết sữa chuẩn bị sinh nhím con, do đó bà con cho nhím cái ăn thức ăn tinh nhiều đạm, chất béo, tinh bột và đường.

Nhím từ 1 – 3 tháng tuổi có khẩu phần khoảng 0.32kg/con/ngày, trong đó thức ăn xanh chiếm 0.3kg, còn lại là thức ăn tinh và các loại lúa, bắp, đậu. Đối với nhím 4 – 6 tháng tuổi, bà con tăng khẩu phần ăn gấp đôi cho nhím, sau đó đến 7 – 9 tháng tuổi, lại gấp đôi khẩu phần thêm lần nữa.

Kỹ Thuật Nuôi Ốc Nhồi Hiệu Quả

Ốc nhồi hay còn gọi là ốc bươu đen đang là loại thực phẩm rất được thị trường ưa chuộng. Nuôi ốc nhồi đang là một hướng phát triển kinh tế mới, nhiều hộ nông dân đã thoát nghèo và vươn lên làm giàu nhờ mô hình chăn nuôi này. Kỹ thuật nuôi ốc nhồi được đánh giá là khá đơn giản, cách chăm sóc không quá phức tạp.

Trong bài viết này #wikiohana sẽ cùng bà con tìm hiểu kỹ thuật nuôi và chăm sóc ốc nhồi hiệu quả.

1. Nuôi ốc nhồi cần chuẩn bị những gì?

Ốc bươu đen còn có cái tên gọi khác như ốc nhồi, ốc lác. Ốc nhồi trước đây sinh sống rất nhiều trong ao hồ, ruộng tự nhiên, nhưng hiện nay do môi trường tác động nên số lượng ốc trong tự nhiên sụt giảm đáng kể.

Món ốc nhồi xuất hiện trong quán ốc vỉa vè cho đến các bữa ăn sang trọng, nhu cầu về ốc là cực lớn. Việc chuẩn bị trước khi nuôi ốc khá quan trọng: chuẩn bị ao nuôi, chuẩn bị giống, chuẩn bị nguồn nước, …

1.1 Chuẩn bị ao nuôi ốc nhồi

Nước ngọt không bị nhiễm mặn là môi trường sống lý tưởng của ốc. Ở nhiệt độ 22 – 30 độ C thì ốc nhồi phát triển – sinh trưởng mạnh. Vào những ngày trời lạnh, hoặc nóng hơn vùng nhiệt độ trên thì ốc thường có biểu hiện dừng đi tìm thức ăn và lui vào trú ẩn.

Mùa đông ở miền bắc, vào những ngày nhiệt độ xuống dưới 10 độ C thì khả năng ốc bị chết khá cao nếu như bà con không có biện pháp hỗ trợ.

Chuẩn bị ao hồ nuôi: Trước khi tiến hành thả ốc giống, ao hồ nuôi cần được nạo vét sạch. Đồng thời cũng cần bón vôi bột để trung hòa lượng pH. Bước chuẩn bị này rất quan trọng, do góp phần loại bỏ các loại thiên địch có thể ăn ốc như cá trắm đen, cá chép hay baba.

Xung quanh bờ ao cần phát quang bụi rậm. Tránh chuột làm tổ xung quanh bờ và cũng tiện cho việc thu hoạch về sau. Ngoài ra ao cần trồng thêm các loài thực vật như rau rút, bông súng, rong tảo để tăng độ mát cho ao cũng như tạo nhiều chỗ bám cho ốc.

Nếu như ao nuôi chỉ thả ốc, thì mực nước lý tưởng là 0,8 – 1,5m. Đối với những vùng chiêm trũng, bà con có thể kết hợp trồng lúa và nuôi ốc nhồi. Lưu ý là đợi đến khi cây lúa bắt đầu sinh trường tốt mới thả ốc giống.

Trong trường hợp nuôi kết hợp trồng lúa, bà con cần cân đối lượng nước vừa phải để cây lúa có thể phát triển tốt. Do cây lúa có thể che chắn ánh nắng mặt trời cho ốc, nên lượng nước cũng không cần quá nhiều. Cách kết hợp nuôi này khá tốt, do ốc có thể tận dụng nguồn thức ăn sẵn có khi cải tạo đất trồng lúa.

Đặc tính của ốc là không phân bố đều, chúng thường tập trung ở một số khu vực nhất định trong ao. Cũng vì lý do đó, bạn nên tạo ra địa hình có độ nông sâu khác nhau để đa dạng môi trường sống. Mục đích chính là để dễ dàng theo dõi cũng như chăm sóc ốc bươu đen hiệu quả.

Ốc nhồi giống được chọn cần đảm bảo khỏe mạnh, chất lượng tốt. Phần vỏ không bị sứt, dập cũng như phần đỉnh vỏ cần có màu tươi sáng. Kích thước con giống khoảng 0,4-0,6g/con.

Vận chuyển con giống sử dụng phương pháp giữ ẩm, việc bơm oxy là không cần thiết. Không được đóng kín túi bọc con giống, cần tạo độ thông thoáng với môi trường bên ngoài.

2. Kỹ thuật nuôi ốc nhồi hiệu quả

Tiến hành thả ốc con

Không nên thả ốc xuống ao nuôi luôn. Cần thả ốc vào chậu sau đó cho từ từ nước vào chậu để ốc thích nghi với môi trường nước mới. Khoảng 30-45 phút sau mới thả ốc xuống ao. Cũng cần lưu ý là mật độ ốc phù hợp khoảng 70 con / mét vuông bề mặt ao.

Thời điểm thả ốc giống khoảng tháng 4 đến tháng 6 hàng năm. Và cần thu hoạch ốc trước mùa lạnh để giảm thiểu rủi ro.

Nhân giống ốc trong ao

Một phương pháp nữa cũng được nhiều bà con lựa chọn là nhân giống ốc tại ao luôn. Sử dụng những ao đất, phần đáy có bùn mềm và nhiều mùn hữu cơ. Mực nước nên giữ ở độ cao 0,5m và tạo ra những dòng chảy nhẹ trong ao.

Đáy ao nên được bón lót trước bằng phân chuồng, phân gà hay phân trâu bò hoai mục. Cùng với đó là trộn lẫn với rơm rạ băm nhỏ. Nên bón phân cho ao trước khi thả ốc bố mẹ 3 ngày. Với mật độ thả khoảng 15-20 con/ mét vuông. Bà con nên thả vào thời điểm trước mùa sinh sản của ốc để đạt hiệu quả tốt.

2.2 Ốc nhồi ăn gì? Thức ăn cho ốc nhồi

Để ốc phát triển tốt, nhanh cho thu hoạch thì chế độ dinh dưỡng khá quan trọng. Lượng thức ăn hàng ngày chiếm khoảng 10% trọng lượng tổng số ốc dưới ao. Mỗi ngày nên cho ốc ăn 1 lần và vào một giờ cố định. Khi ốc gần thu hoạch, bà con có thể tăng lượng thức ăn của ốc lên. Cùng với đó là nếu trong ao có nhiều thức ăn tự nhiên thì nên giảm khẩu phần ăn của ốc.

Nguồn thức ăn của ốc rất đa dạng và dễ kiếm trong tự nhiên. Có thể kể đến như bèo lục bình, các loại cỏ dại xung quanh hồ, lá sắn, rau muống, … Ngoài ra có thể cho ốc ăn các loại thức ăn tinh như bột cám ngô, các loại cám gạo.

3. Hướng dẫn thu hoạch ốc nhồi

Khi ốc trong ao đạt trọng lượng khoảng 25-30 con / kg là thời điểm bà con có thể thu hoạch. Ốc có thể thu hoạch theo hình thức tỉa dần. Bắt những con lớn trước, và để những con bé lại nuôi. Hình thức gối vụ như vậy thích hợp cho ốc phát triển, giảm lượng thức ăn không cần thiết.

Thời điểm thu hoạch ốc là chiều tối mát hoặc sáng sớm. Lúc ốc đi tìm ăn và nổi lên trên, rất dễ thu hoạch. Sau mỗi mùa thu hoạch, có thể bớt lại số lượng ốc bố mẹ nhất định để nuôi cho năm sau sinh sản.

Kết bài

Như vậy là #wiki đã cùng bà con tìm hiểu kỹ thuật nuôi ốc nhồi đúng cách. Cùng với đó là những lưu ý trong quá trình chăm sóc ốc nhồi hiệu quả, nhanh cho thu hoạch.

Chúc bà con thành công với nghề nuôi ốc nhồi!

Cập nhật 26/06/2020

Kỹ Thuật Nuôi Cá Cảnh Sinh Sản

Đa số người nuôi cá cảnh sinh sản thường thích việc “ép cá”, tức là làm cá đẻ theo cách họ muốn, có thể tự nhiên hoặc không tự nhiên. Cá đẻ tự nhiên thì dễ nhưng chăm sóc cá con đôi lúc không dễ, ép cá đẻ không tự nhiên cũng không khó nhưng cần phải biết cách để đảm bảo “mẹ tròn con vuông”.

Một nét quyến rũ của việc nuôi cá cảnh là có nhiều loài cá có thể nhân giống khi nuôi. Nhân giống cá cảnh gần như là bí quyết của mỗi người kinh doanh cá cảnh. Qua hàng chục năm kinh nghiệm, nhiều nghệ nhân chơi cá cảnh đã đúc kết một số kinh nghiệm, mà chắc chắn, các “ngón nghề” công phu họ vẫn giữ cho riêng mình.

Người ta có thể chia sự sinh sản của cá thành hai giai đoạn: các sự kiện dẫn đến sự thu tinh và sự chăm sóc cá bột. Người nuôi cá, ở hai giai đoạn dó, cần tác động đến sự chọn lựa và đặt điều kiện cho cá trưởng thành; chuẩn bị bể nuôi cá sinh sản, trông nom sự thụ tinh và việc nuôi cá bột.

Muốn nuôi cá cảnh cho sinh sản, bạn cần phải nắm vững những điều cần biết sau đây:

1. Phải biết phân biệt giới tính

Cá cũng như chim, cách phân biệt trống mái cũng giống với loài thú. Loài thú dù to như con voi hay nhỏ như con chuột nhắt, đực cái khác nhau ở bộ phận sinh dục của nó.

Với chim chóc, đa số giống, trống mái khác nhau ở sắc lông và vóc dáng. Về thân mình, con trống lớn hơn con mái. Về màu sắc, chim trống đẹp hơn chim mái. Giới tính của cá thì khó phân biệt hơn, hầu hết trông con nào cũng giống con nào. Muốn nuôi cá để sinh sản thì điều trước tiên đòi hỏi phải biết phân biệt giới tính của từng giống cá mà bạn đang nuôi. Nhưng điều này không hề dễ. Chỉ những ai nuôi cá lâu năm, nhiều kinh nghiệm trong nghề mới biết được.

Một sự phân biệt dễ nhận thấy nhất là cá trống thường có thân mình thon dài, trong khi mình cá mái lại bầu bĩnh hơn. Tuy vậy, với chi tiết này không thôi, không ai dám đoán chắc một trăm phần trăm là đúng! Để đạt sự chuẩn xác, ta còn phải quan sát kỹ các bộ phận khác của cá như vi, bụng, hậu môn (nơi đây cũng là bộ phận sinh dục của cá), đồng thời còn quan sát cả cách bơi lội của chúng mới dám đi đến kết luận cuối cùng.

Về cách phân biệt giới tính, có một số giống cá do có những đặc điểm riêng biệt nên giúp ta dễ phân biệt hơn, ví dụ như cá lia thia, cá hồng kim…

Với cá lia thia, cá trống bình thường cũng có màu sắc như cá mái, nhưng khi sung lên, toàn thân nó đỏ ửng màu tím hồng đặc trưng rực rỡ, trong khi cá mái lúc nào thân mình cũng lợt lạt, nếu sợ hãi còn nổi sọc dưa dọc theo thân mình. Còn hồng kim trống có thuỳ dưới ở đuôi mọc dài ra như lưỡi kiếm rất dễ nhận. Chính vì có đặc điểm dễ nhận thấy này mà hồng kim được mang một tên khác là “cá kiếm”.

Với những giống cá cảnh khó phân biệt được giới tính rõ ràng, từ trước đến nay chủ nuôi chỉ còn cách là để tâm theo dõi qua nhiều cách sau đây:

Cách dễ nhất là thấy cá mái trong mùa sinh sản bụng căng to, vì bên trong chứa nhiều trứng, nếu bụng màu trắng thì trứng còn non, mái mới cấn chửa, nếu bụng trứng đỏ trở nên màu vàng, bụng to hơn, cá lội chậm chạp là lúc bên trong chứa nhiều trứng đã già. Lúc này có con nào lẽo đẽo cặp kè theo cá mái chính đó là cá trống.

Bình thường trong hồ cá, dù cùng một giống, mỗi con vẫn lo kiếm ăn mỗi hướng, không con nào quan tâm đến con nào. Nhưng, vào mùa sinh sản thì cá trống rượt đuổi theo cá mái để bắt cặp với nhau. Từ đó, lúc nào chúng cũng như bóng với hình, kề cận bên nhau.

Khi nhận đúng cặp trống mái thì ta dùng vợt vớt chúng ra nuôi riêng cho sinh sản. Và từ đó trở về sau, với cặp cá đó bạn chắc chắn không còn lẫn lộn giới tính của chúng nữa. Cặp trống mái đó vẫn cho bắt cặp với nhau vào lứa sau, không cần phải thay đổi, nếu thấy chúng vẫn sinh đẻ tốt.

2. Phải nắm vững cách sinh sản của từng giống cá

Trong đời sống hoang dã, giống cá cảnh nào cũng sinh sản tốt. Thế nhưng, khi bắt nuôi trong hồ thì nhiều giống bỏ tập tính tự nhiên này, hoặc có đẻ nhưng lại nuôi con kém. Mặt khác, gần như mỗi giống cá lại có cách sinh sản khác nhau, nên bạn cần phải biết rõ để tuỳ từng trường hợp mà xử lý cho đúng cách, có như vậy mới thu được nhiều lợi.

Thực tế cho thấy có giống cá cảnh làm tổ bằng bọt nước rồi gắn trứng lên đó để chờ ngày nở. Có giống đẻ trứng vào cọng rong, vào rễ lục bình. Có giống lại để trứng lên những tấm đã phẳng … Nhờ nắm vững được điều đó, nên khi các sắp đẻ, ta có thể “lót ổ” cho nó tạo điều kiện thuận lợi cho cá sinh sản.

Đó là trường hợp đẻ trứng, còn việc nuôi con thì gần như mỗi giống cũng có cách riêng:

Có giống cá trống không cho cá mái nuôi con, và giành lấy phần việc khó khăn này cho riêng mình.

Có giống khi con nở ra là cá mẹ ăn con không thương tiếc, khiến cá con nở nhiều mà không sống được bao nhiêu (nhờ biết vậy mà ta tìm cách ngăn ngừa)

Có giống cá cảnh không đẻ trứng mà đẻ thẳng ra cá con, và con tự sống, không cần đến sự nuôi dưỡng cũng như bảo vệ của cá cha mẹ.

Có giống tới giờ đẻ trứng phải cần nhiều trống “ép” một mái thì việc đẻ trứng mới suôn sẻ được.

Có giống cá cảnh có thói quen chỉ đẻ ban ngày, như cá Dĩa. Có giống chỉ đẻ ban đêm, như cá Tàu, và nhiều giống cá lại đẻ bất kỳ giờ giấc nào trong ngày.

Kể ra biết được những điều này rất thú vị và có lợi.

3. Các phương thức sinh sản

Loại cá đẻ thai trứng:

Thường là loại cá họ lành canh (coilia) hay cá mào gà, họ cá trổng (Engraulidae) bộ cá trích (Clupeiformes), có giá trị kinh tế… Trứng thụ tinh trong bụng con cái, con cái trực tiếp đẻ khi trứng trưởng thành, cá con biết hơi liền. Khi con cái có thai, bụng đã to, tách nuôi riêng. Cá gần sinh, để vào một cái lồng đặc chế trong bể sinh sản. Đáy lồng có nhiều mắc lưới để cá con chui ra thoải mái qua bể kính. Có thể treo nhiều lồng tùy loài cá sinh nhiều ít. Giản dị hơn, người ta đặt tấm lưới nilông ở đáy hồ để cá con chui xuống đó núp (áp dụng cho cá bảy màu, đuôi kiếm, cá ánh trăng, mã lệ…).

Khi nhiệt độ hơn 180C, thả vài trăm con cá giống ra hồ, thả rong che bớt ánh nắng cho chúng, tập chúng quen dần với môi trường mới. Thường thường, con cái đẻ mỗi tháng một lần, mỗi lần từ 50 – 200 con.

Cá đẻ trứng trên đá cuội hoặc trên rong (như cá hèm, cá bốn sọc, cá gần họ cá chép, ngựa vằn, tua vàng)

Đây là loại cá tự tìm bạn tình, thả cá giống chung vào, chúng tự hoàn thành công việc sinh sản. Thường thì tỉ lệ 1 đực – 1 cái, nhưng có loại 2 đực – 1 cái thì nên để 3 – 5 con cá giống vào hồ sinh sản. Hồ chỉ chừng 30 x 20 x 15 cm, trải dưới một tấm nilông có tính đàn hồi, bốn góc để vài bó rong vàng, đáy hồ thả đá cuội, cho thiết bị bổ sung oxy, giữ nhiệt độ 24 – 28 độ C trong hồ. Trứng thụ tinh bám vào rong hay đá cuội. Sau khi cá sanh, có thể bắt cá đực, cá cái trở lại hồ dưỡng, hồ cũ hay nuôi riêng hồ khác cũng được. Hai lần cho đẻ nên cách nhau 7 – 10 ngày. Cá sinh sản được khi đạt 6 – 7 tháng tuổi.

Loại cá đẻ trứng trong nước bọt

Họ cá đá đa số sinh sản trong nước bọt (cá đá Thái Lan, ngựa trân châu tam giác, cá hôn môi, cá lệ hồng, lệ ngũ sắc, rồng lượn xanh…) tự chọn bạn tình rồi đẻ trên bọt nước, trứng sinh ra con cũng trên bọt nước. Hồ sinh sản cỡ 50 x 50 x 35 cm, thả rong hay cải lá xanh trên mặt nước, cho một cặp cá giống vào. Con đực nâng cọng rong hoặc nhả bọt dưới rong, hai cá quấn quít nhau trên đám rong, lá đó. Con đực ngậm trứng cá cái đẻ ra, nuôi dưỡng con nhỏ… (thường từ chạng vạng tối đến sáng hôm sau). Xong việc sinh sản, lập tức tách cá đực – cái ra. Nếu không, con đực “tiếp tục” với con cái, có khi làm hư vây – đuôi con cái. Riêng với cá đực Thái Lan, một hồ chỉ thả một con để tránh chúng chọi nhau giành mái.

Loại cá đẻ trứng trên tấm bảng (cá ông tiên)

Để tấm nilông xanh hay đá ốp lát. Tấm nhựa nilông dày 0,05 mm cắt thành hình chữ nhật 6 x 12 cm để nghiêng góc 450, cố định trên đế cao 10 cm làm tổ cho cá ông tiên (đầu vàng, đốm đen, uyên ương…). Lúc đẻ, con cái ở phía trước đẻ trứng đều đặn lên tấm bảng, con đực theo sát phía sau, hoàn thành việc thụ tinh trên trứng, toàn bộ quá trình trật tự không lộn xộn. Xong, cả cá đực, cá cái dùng vây ngực quạt nước, chăm sóc trứng. Khoảng cách giữa hai lần sinh là 12 ngày.

Loại cá đẻ trứng trong chậu hoa (chủ yếu là loại cá từ điêu như phượng hoàng bảy màu, cá quýt…)

Cho chậu hoa vào trong đáy hồ. Hai cá đực cái dùng miệng làm sạch chậu hoa, sau khi cá sanh xong, lấy chậu hoa ra, đặt vào hồ có dưỡng khí để ấp. Nhiệt độ từ 27 – 28 độ C trong nước sinh sản là thích hợp. Riêng cá ông tiên bảy màu cũng dùng chậu hoa làm tổ nhưng chọn hoa màu tím để chúng đẻ bên vách ngoài chậu hoa…

Loại cá ấp trứng trong miệng (như cá rồng, cá trích châu Phi, cá miểng sành ngăn châu Phi…)

Loại cá này có sở thích làm tổ trong cát, con cái canh giữ ngoài tổ, con đực dụ con cái vào trong tổ và phóng tinh. Con cái vừa đẻ vừa dùng miệng ngậm trứng đã được thụ tinh vào miệng rồi ấp trứng trong miệng. Sau 7 – 8 ngày trứng nở thành con. Cá con bơi đi ăn nhưng có động, tụ tập lại tại miệng cá mẹ, cá mẹ ngậm vào họng bảo vệ con.

Ngoài ra, các loài cá heo, dứa vàng làm tổ ngay và đẻ trứng trên nham thạch láng.

Loại cá đẻ con:

Có những loài cá đẻ con ngay từ lúc mới sinh, các cá con đã bơi được tự do và vóc dáng như bố mẹ chúng thu nhỏ lại. Tất nhiên là trong bể nuôi có nhiều cây cỏ và cả một thảm cây nổi, có thể làm cho chúng thoát khỏi sự ăn thịt của cá bố mẹ.

Như vậy, công việc nhân giống cá không ít lý thú và khi biết các đặc tính của cá thì người kinh doanh dễ thành công hơn.

4. Chuẩn bị bể cho cá đẻ

Bể sinh sản không nên có mật độ cá quá dày. Trong bể, cần có dụng cụ lọc bằng bọt bể là tốt nhất vì không gây hại cho cá con.

Tuy nhiên do không gian bị giới hạn, thường ta khó tách chúng ra và tìm cho chúng một nơi sinh đẻ chắc chắn, do vậy mà trứng hay cá bột vừa lớn thường bị cá lớn ăn thịt. Có hể giải quyết vấn đề này bằng cách tạo những bể nuôi riêng biệt, trong đó chỉ để cá sắp sinh sản. Bể cách ly này sẽ đáp ứng được yêu cầu trên.

5. Yêu cầu về nước và nhiệt độ

Phẩm chất của nước và nhiệt độ của bể sinh sản và bể nuôi chính phải giống nhau. Nếu như cá sinh sản cần có những điều kiện tồn tại khác hẳn (ví dụ như để kích thích sự đẻ trứng), ta phải làm cho cá thích nghi với môi trường mới một thời gian; có như vậy mới có đủ điều kiện thay đổi phẩm chất của nước mà không gây choáng hay rối loạn ở cá. Bể sinh sản của cá đẻ con cũng chỉ dành cha cá cái có thai và chỉ cho chúng vào đó vào đầu thời kỳ có chửa.

Trước hết là chú ý môi trường nước. Người cẩn thận cho than hoạt tính vào túi nilông hoặc thùng sắt tròn có tráng men rồi cho nước máy chảy vào để lọc. Sau đó, đun chứa vào các hồ chứa sạch làm nước nuôi dưỡng cá hàng ngày, làm môi trường cho cá sinh sản.

Một phương pháp lọc nước khác mà người nuôi cá áp dụng là dùng chất hóa học cao phân tử. Chất này lọc các phân tử calci, ma-nhê, muối gốc acid trong nước để nước trở thành nước trung tính, thích hợp dùng làm môi trường sinh sản cho nhiều loại cá họ chép, từ điêu…

Người kỹ hơn thì chưng cất nước: dùng phương pháp điện giải và phân tích bằng điện cực âm – dương. Sau đó, hòa chung với nước sạch để có độ cứng và tích kiềm – acid không đồng đều, thỏa mãn yêu cầu nước dùng sinh sản cho các loại cá khác nhau.

Ở nông thôn người nuôi cá thường hứng nước mưa. Nước mưa có hàm lượng phân tư ãkim loại rất ít, thích hợp cho việc dùng sinh sản các loại cá chép. Người ta không hứng nước theo mái nhà mà hứng giữa trời. Đặc biệt, chọn các vùng chưa ô nhiễm khói, bụi trong không khí.

Muốn nhân cá giống, thường phải học hỏi kinh nghiệm, tự trang bị kiến thức và thận trọng thực hành.

Trước hết là tìm hiểu từng đặc điểm sinh sản để biết cách mà áp dụng.

6. Chọn cá đẻ

Do đặc điểm sinh lý của mỗi loài cá có sự khác nhau, cho nên kỹ thuật cho cá đẻ ở mỗiđối tượng đều có sự khác nhau. Dù là cá đẻ trứng hay đẻ con, điều quan trọng trước tiên là tìm cho đúng một cặp, một trống, một mái. Thường thì cá đực có vây hậu môn biến đổi khác với cá cái. Ở các cá đẻ trứng, ít có sự khác biệt rõ rệt, nhưng có một số đặc tính có thể giúp xác định cá đực hay cá cái. Thông thường cá đực mảnh hơn và có màu sắc sặc sỡ hơn, và các vây khá phát triển. Trong bể nuôi, các loài cá thuộc họ cá rô phi thường tự lựa chọn cá khác giống để ghép đôi.

Cá chọn để sinh sản phải là cá khỏe mạnh, không bị bệnh hoặc biến dạng. ta cần chọn cá có những điểm mạnh như là có màu sắc đẹp, vây phát triển tốt v.v… Điều đó có ý nghĩa khi ta muốn cá con sẽ có màu sắc mà ta thích hoặc có vây đẹp.

Trước khi cho cá ghép đôi, người ta thường nuôi tách riêng cá đực và cá cái. Suốt trong thời kỳ này, phải chăm sóc và có chế độ nuôi dưỡng đặc biệt. Cách làm này sẽ đảm bảo là cá cái có trứng tốt. Nếu cá cái chưa sẵn sàng chịu đực thì cá đực thường săn đuổi và cắn cá cái. Vì lẽ đó mà người ta thường thả cá cái vào bể sinh sản trước; bể này sẽ là lãnh địa của nó và nếu ta thả cá đực vào, nó sẽ ve vãn cá cái. Người ta cũng có thể cho đồng thời cả cặp cá vào bể sinh sản bằng cách dùng một vách ngăn bằng kính hay nhựa để phân tách ra. Đến khi cặp cá đã sẵn sàng, ta chỉ cần cất vách ngăn cho chúng tiếp xúc với nhau.

7. Chăm sóc cá đẻ

Lúc cá sinh đẻ và giai đoạn kế tiếp, cần đặc biệt quan tâm đến cá. Một số cá đực ve vãn cá cái nồng nhiệt và tiếp tục quấy rầy con mái ngay cả sau sự thụ tinh; một số khác ngược lại, lại xua đuổi cá cái mà không chấp nhận ghép bắt cặp ngay từ đầu.

Có những loài cá không quan tâm đến trứng đẻ ra, có khi cá cái ăn trứng. Trong trường hợp này, người nuôi phải đưa cá cái sau khi đẻ ra khỏi bể nuôi, chỉ để cho cá đực chăm sóc con, hoặc có thể đưa cả cặp trống mái ra và ấp trứng một cách nhân tạo bằng cách đặt một miếng đá bọt gần trứng và để cho dòng nước chảy thay thế chuyển động quạt vây của cá bố mẹ. Làm như vậy, cá vẫn đủ ôxy để sinh trưởng.

Trứng cá họ Cá chép răng thường được đẻ ra trong các bụi cây tự nhiên, trên lớp than bùnở đáy bể. Tùy theo loài cá, ta phải thu nhặt trứng và cho nở ở nước ít sâu, có thể để chúng trong 1-2 tháng trong than bùn hầunhư khô trước khi nhúng lại vào nước để thúc đẩy sự nở trứng. Do cá đực thường khỏe hơn, trong thực tế, người ta thường xếp 1 cá đực cùng với hai cá cái. Trong trường hợp những loài cá làm tổ bọt, tốt nhất là mang cá cái ra khỏi bể sau khi trứng đã thụ tinh; cá đực sẽ bảo vệ tổ và trứng một cách nồng nhiệt.

Sau khi cá đã sinh đẻ, nên để cho cá đẻ con nghỉ vài hôm cho lại sức rồi mới cho chúng vào bể nuôi chính.

9. Nuôi cá con

Kể từ lúc bắt đầu bơi được, cá con đã cần đến thức ăn, nhưng chính trong giai đoạn chưa bơi thực sự này, cá có thể sống nhờ chất dự trữ ở túi noãn hoàng. Không cần cho ăn vội, vì lúc này cá cũng chưa biết ăn, do vậy thức ăn thừa sẽ làm ô nhiễm bể.

Thức ăn đầu tiên của cá phụ thuộc vào kích thước của cá, vì các loài cá nở ra hoặc được đẻ ra thường có kích thước khác nhau. Thường thì cá con của các loài làm tổ và đẻ trứng phân tán tỏ ra không ham ăn như cá con của họ Cá rô phi và cá đẻ con.

Ngày nay, người ta đã sản xuất ra đủ loại thức ăn riêng biệt thích hợp dưới dạng lỏng, bột, nhão, bột mịn và tổng hợp để cung cấp cho nhu cầu của cá đẻ trứng và cá đẻ con. Có loại nước màu lục có chứa trùng cỏ rất thích hợp cho cá bột còn nhỏ. Các loại giun nhỏ, rận nước … đều tốt đối với phần lớn cá nhỏ, những thức ăn lý tưởng cho cá bột đều ăn được là Artemia. Cá con lớn nhanh sẽ tìm ăn giun, bột ngũ cốc, và các loại thức ăn tổng hợp.

Ở các loài cá họ Cá sặc, như cá chọi Betta splendens và cá tai tượng … rất kỵ luồng gió lạnh có thể xâm nhập qua nắp bể, do đó khi nuôi phải chú ý che chắn chỗ có gió lùa.

Cá con cần cho ăn liên tục. Khi cá đã lớn, cần phải định kỳ thay một phần nước cũ, tăng lưu lượng thông khí và tăng hệ thống lọc. Sự tăng vận chuyển của nước và thay nước mới sẽ làm tăng sự sinh trưởng điều hòa của cá. Khi cá đã lớn, có hình dạng và màu sắc riêng biệt của cá bố mẹ, cần loại hết các cá ốm yếu, chậm chạp. các cá con không có màu và vây phát triển bình thường cũng nên loại bỏ. Lựa chọn cá đẹp đẻ nuôi, để tạo giống là cần thiết.

Như các bạn đã biết, đa số các giống cá cảnh đều có khả năng chu toàn thiên chức làm cha mẹ của mình đối với ổ cá con của chúng. Thế nhưng, cũng có nhiều giống chỉ có cá cha hay cá mẹ mới làm tròn thiên chức cao quý này thôi. Con còn lại một là chểnh mảng trong việc nuôi con, hai là có tật ăn trứng, ăn con, khiến trứng đẻ thì nhiều, con nở cũng lắm, nhưng cuối cùng sống sót không được bao nhiêu.

Để cứu vãn tình hình quá xấu này, tuỳ từng trường hợp mà ta nên có cách xử lý kịp thời để cứu nguy cho ổ cá, đồng thời để đảm bảo cho nguồn lợi của mình:

Trường hợp cá cha hay cá mẹ ăn trứng hoặc ăn cá con: Phải biết chắc chắn cá nào có tật đó thì vớt ra ngoài sau khi nó đẻ trứng xong. Thông thường giống cá cảnh nào mà một trong hai con cha, mẹ sau khi để lại quay sang ăn trứng thì con còn lại nuôi con rất giỏi. Ta nên đặt hết niềm tin vào con cá đó mà cứ để cho nó tự nuôi con.

Trường hợp một trong hai cá cha hoặc mẹ bị chết: Gặp trường hợp này ta phải nuôi “bộ” ổ trứng đó, nếu biết chắc con cá còn lại không đủ khả năng nuôi sống đàn con sau này.

Trường hợp ổ cá con quý hiếm: Dù cá cha mẹ đầy đủ, nhưng biết chắc một trong hai con đó nuôi con không giỏi, mà bầy con lại rất hiếm quý, bán được giá cao thì ngay từ đầu ta nên khéo léo cách ly cá cha mẹ ra khỏi ổ trứng mà nuôi “bộ”, như vậy mởi bảo toàn được ổ cá con

Vậy thế nào là nuôi “bộ”?

Nuôi bộ là cách nuôi không cần đến cá cảnh cha mẹ. Sau khi cá cha mẹ đẻ trứng vào cọng rong, vào rễ cây lục bình hoặc trên viên ngói (tuỳ theo thói quen của từng giống) ta làm liền một trong hai cách sau đây:

Vớt hết cá cha mẹ ra ngoài nuôi riêng. Coi như việc đẻ trứng của chúng lứa này đã hoàn thành. Ổ trứng để lại tại hồ để ta có cách nuôi riêng.

Nhẹ tay cẩn thận dời ổ trứng ra ngoài, đặt trong một hồ khác đã chuẩn bị sẵn để chờ ngày cá nở. Trong trường hợp này thì cá cha mẹ vẫn còn ở lại hồ cũ.

Hồ nuôi bộ ổ cá cần phải chuẩn bị kỹ với những dụng cụ như sau:

Máy cung cấp dưỡng khí: nên cung cấp dưỡng khí liên tục suốt ngày đêm vào nước hồ từ ngày đầu ấp trứng.

Nước hồ phải sạch và hồ phải đặt vào nơi thoáng mát, yên tĩnh mới tốt. Chỉ sử dụng máy lọc nước khi cá con đã được vài tuần tuổi.

10. Thức ăn cho cá con

Cá cảnh con nở trong ba bốn ngày đầu không cần phải cho ăn, mà có cho ăn chúng cũng không biết ăn. Trong thời gian này cơ quan tiêu hoá của cá chưa phát triển đầy đủ nên chưa hấp thu được thức ăn, nhưng cá con vẫn không đói vì còn những chất dinh dưỡng dự trữ trong thân cá.

Thức ăn ban đầu của cá con là những sinh vật cực nhỏ như bo bo chẳng hạn. Có thể cho cá con ăn lòng trắng trứng. Cá một tuần trở đi, có thể biết ăn lăng quăng, biscotte. Vài tháng tuổi trở về sau, cho ăn trùn chỉ, thức ăn hỗn hợp ….

11. Cách làm biscotte cho cá cảnh ăn

Dùng bột mì hay bánh mì khô hay gạo rang cho vào cối giã nhuyễn thành bột mịn. Cứ một lon bột ta trộn chung độ 5 cái lòng đỏ hột gà (hay hột vịt) rồi đem phơi nắng thật khô. Sau đó bóp nhuyễn rồi rây lại để lấy bột mịn dành cho cá ăn từ từ.

Mỗi lần cho cá ăn, ta rắc bột biscotte lên mặt nước hồ để cá con trồi lên ăn. Đây là thức ăn bổ dưỡng cá cảnh con rất thích ăn.

Nuôi bộ mà nuôi khéo, tỷ lệ hao hụt cá con không nhiều. Những nghệ nhân nuôi cá cảnh nhiều kinh nghiệm thường áp dụng cách nuôi bộ này và cũng nhờ đó mà thúc đẩy cá mẹ mau để lứa sau.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Kỹ Thuật Nuôi Nhím Sinh Sản Hiệu Quả trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!