Cập nhật nội dung chi tiết về Tìm Hiểu Về Chim Chào Mào Bạch, Loài Chim Đột Biến Gen mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong thế giới tự nhiên chào mào đã hiếm mà chào mào bạch tạng còn hiếm hơn chúng dường như rất ít xuất hiện, có rất ít người biết tới loài chim này. Chim chào mào bạch tạng là loại chào mào đột biến gien, có màu lông trắng như tuyết toàn thân, chân hồng, mỏ hồng và mắt hồng. Chào mào đột biến là loại chim hiếm trong thiên nhiên và được rất nhiều người săn đón, chúng có giá từ 40 triệu đến 300 triệu. Rất nhiều người chơi chim đã chi ra số tiền khủng để sở hữu chúng để phục vụ cho niềm đam mê của họ hoặc với mục đích sinh sản.
Quá trình sinh sản của chim chào mào bạch
Đối với loài chim chào mào bạch đột biến gen này thì quá trình sinh sản cần được chú ý. Đặc biệt chim chào mào bạch thường bắt cặp và sinh sản từ tháng 11 đến tháng 6 dương lịch năm sau, và cũng có nhiều con đẻ thời gian khác. Đây là thời gian anh em cho chim vào aviary ( gọi là lồng nuôi chim loại lớn). Trước tiên cho con trống vào sau đó cho chim mái vào, nếu thấy 2 con ve vãn nhau, con đực múa xòe thì coi như đã bắt cặp xong.
Cách chọn lồng cho chào mào bạch tạng sinh sản
Nên làm các loại lồng lớn có kích thước rộng khoảng 1m, cao 1,5m và dài 2m. Trong lồng nên bố trí cây xanh, cầu cho chim nhảy, dưới nền để đất, phía trên cần che mưa và nắng. Đặc biệt là hướng lồng về phía đông để chim đón ánh ban mai và tắm nắng. Trong aviary nên để 1 cóng nước uống loại lớn, cóng thức ăn và 1 khay nước để chào mào tắm. Lồng phải để nơi yên tĩnh, ít người qua lại và tạo sao cho đẹp như ngoài thiên nhiên thì tỉ lệ sinh sản của chào mào càng cao. Cho rơm, rạ, vỏ dừa khô để chim làm tổ,hoặc có thể tự làm cho chim.
Dinh dưỡng cho chào mào bạch sinh sản
Đây là điều quan trọng nhất để quyết định chào mào có sinh sản hay không. Chim bình thường ăn với chế độ đó. Đến mùa sinh sản cần phải tăng thêm thức ăn, đặc biệt là chim mái. Thức ăn cần bổ sung trái cây, mồi tươi như cào cào, dế, trứng kiến, sâu tươi… hầu như ngày nào cũng phải có.
Giai đoạn chim chào mào bạch đẻ trứng
Chào mào thường đẻ 3 trứng, cũng có con đẻ tới 5 trứng, nhưng thường nở ra chỉ được 3 con, lúc này cần bổ sung nhiều mồi tươi, vitamin C, chất đạm để giúp chim khỏe mạnh và không ăn trứng. Bạn chú ý không thò tay vào ổ, tránh trường hợp chim bỏ ấp.
Chào mào bạch ấp trứng
Chào mào trống và mái thay nhau ấp trứng để luôn giữ đủ nhiệt độ cho trứng nở. Mất khoảng 2 tuần là thời gian mà trúng có thể nở, nếu giangặp thời tiết không thuận lợi thì có thể xê dịch ngày nở trứng 1-2 ngày.
Chăm sóc chào mào bạch con
Sau 14 ngày ấp trứng thì đã cho ra những chú chào mào con rất đẹp. Giai đoạn này bạn cần bổ sung thức ăn cho chào mào bố và mẹ đồng thời thêm thức ăn để nuôi chào mào con.
Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ
Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có. Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi. Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí. có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là
Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “ Turaha pigli-Pitta bulbul Sipahi Kanera bulbu Phari Pettigrew-kick II. Sinh sản, hành vi sinh thái:
(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch) Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á. – Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).
Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:
Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758) , được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.
Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.
Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.
Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.
Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận. Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài
Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)
Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp
Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:
Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.
Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.
Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.
Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.
Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.
Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.
Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.
Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:
Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Chi Pycnonotus (cận ngành)
Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus
Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris
Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos
Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus
Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus
Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus
Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier
Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans
Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys
Chào mào thường, Pycnonotus barbatus
Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus
Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus
Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus
Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus
Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus
Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus
Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis
Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)
Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos
Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis
Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer
Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster
Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)
Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus
Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus
Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus
Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus
Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens
Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus
Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi
Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons
Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques
Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger
Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger
Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành
Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii
Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus
Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus
Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus
Cành cạch má xám, Alophoixus bres
Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus
Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis
Cành cạch ô liu, Iole virescens
Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua
Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea
Cành cạch trán vàng, Iole indica
Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala
Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus
Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis
Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?
Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?
Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti
Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis
Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii
Cành cạch Sunda, Ixos virescens
Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)
Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos
Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis
Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus
Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris
Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris
Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus
Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus
Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens
Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni
Greenbul điển hình và đồng minh
Chi Phyllastrephus (19 loài)
Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)
Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy
Chi Chlorocichla (6 loài)
Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)
Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)
Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus
Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.
Tách ra gần đây từ Pycnonotidae
Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.
Hiện nay trong chích Malagasy
Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus
Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis
Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành
Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops
Tetraka Appert, Xanthomixis apperti
Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus
Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps
Nicator đốm vàng, Nicator chloris
Nicator miền đông, Nicator gularis
Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.
Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni
Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous
Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus
Tìm Hiểu Về Loài Chim Vành Khuyên
Các loài chim trong họ này rất khó phân biệt theo bề ngoài, bộ lông ở các phần trên của chúng có màu hơi xỉn như màu ôliu ánh lục, nhưng một số loài có phần lông ở họng, ở ngực hoặc các phần dưới màu trắng hay vàng tươi. Còn vài loài có phần hông màu vàng sẫm như màu da bò. Tuy nhiên, tên gọi khoa học của chúng, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại để chỉ cái vành đai quanh mắt, xung quanh mắt của nhiều loài có một vành tròn màu trắng dề thấy. Chúng có các cánh thuôn tròn và các chân khỏe. Chiều dài cơ thể tối đa là 15cm. Tất cả các loài trong họ này đều sống thành các bầy lớn và chúng chỉ tách ra khi tới mùa sinh sản, Lúc này, chúng sẽ làm tổ trên cây và đẻ từ 2 – 4 trứng màu lam nhạt không đốm. Thức ăn chủ yếu của chúng là côn trùng, nhưng loài chim này cũng ăn cả mật hoa và quả của nhiều loài thực vật. Loài vành khuyên châu Đại Dương lại gây hại ở các vườn nho tại Australia, do chúng khoét các quả nho và làm giảm phẩm cấp của nho.
Họ Vành khuyên được coi là một họ riêng biệt từ rất lâu trong lịch sử phân loại, do chúng nên đồng phát sinh khi xem xét về mặt hình thái và sinh thái, dẫn tới ít có sự bức xạ thích nghi và rẽ nhánh trong tiến hóa. Chi Apalopteron, trước đây được đặt trong họ Hút mật (Meliphagidae), đã được chuyển tói họ Vành khuyên trên cơ sở của các chứng cứ di truyền. Chúng khác biệt một cách rõ nét về bẽ ngoài với các loài điển hình thuộc chi Vành khuyên (Zosterops)、nhưng lại khá gần với một vài chi sinh sống trong khu vực Micronesia. Kiểu màu lông của chúng là sự lưu giữ rõ đơn nhất của vành mắt trắng không hoàn hảo.
Năm 2003, Alice Cibois đã công bố các kết quả trong nghiên cứu của bà về các chuỗi dữ liệu ADN ti thể (mtDNA) cytochrome b và 12S/16S rRNA. Theo kết quả của bà, các loài chim dạng vành khuyên có thể đã tạo thành một nhánh chứa cả chi Khướu mào (Yuhina) là chi được đặt trong họ Họa mi (Timaliidae), chúng là một họ lớn. Theo các nghiên cứu ở mức phân tử trước đây cùng với các chứng cứ hình thái học đã đặt không dứt khoát các loài chim dạng Vành khuyên là cáo họ hàng gần gũi nhất của họ Timaliidae. Tuy nhiên, các loài trong họ vành khuyên là rất giống nhau vê thói quen và hành vi, trong khi các loài trong họ Họa mi lại khác nhau
Cùng với các loài khướu mào (và có thể là cả một số chi khác của họ Timaliidae), thì các giới hạn giữa nhánh vành khuyên với nhánh họa mi “thật sự” trước kia trở nên không rõ ràng. Vì thế, có một số ý kiến khoa học năm 2007 đã nghiêng về phía hợp nhất nhánh chứa vành khuyên vào trong họ Timaliidae, dưới dạng của một phân họ có danh pháp là “Zosteropinae” (phân họ Vành khuyên). Tuy nhiên, có rất ít các loài trong họ Vành khuyên đã được nghiên cứu kỹ lưỡng với các kết quả mới và tất cả các loài này đều thuộc chi Zosterops mà tại thời điểm hiện nay chúng vẫn ở tình trạng lẫn lộn. Ngoài ra, nhiều chi/loài trong họ Họa mi vẫn chưa được giải quyết triệt để về quan hệ phát sinh loài.
Nguồn : Sưu tầm Internet
Tìm Hiểu Về Giống Chim Khướu
Khướu (Timaliidae) họ chim, thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) gồm các loài chim rất đa dạng, có cỡ trung bình, một số loài khướu cỡ nhỏ. Bộ lông khướu mềm, dày, xốp, thường có màu xỉn, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây, có tiếng hót vang và hay.
Phần lớn khướu sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng, chủ yếu sống định cư. Tổ hình chén hoặc tổ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau.
I. Các loài khướu: Trên thế giới có 254 loài khướu. Việt Nam có 95 loài, được xếp vào loài đặc hữu Việt Nam, phân bố ở các tỉnh miền Trung Việt Nam (như Quảng Bình, Quảng Trị), nam Trung bộ và đặc biệt ở Lâm Đồng. Khướu mun (tên khoa học là Garrulax chinensis lugens) được nuôi làm cảnh từ những năm 1994-1995 nhưng là vì chim rừng, nên khó nuôi. Chim khướu chọn nuôi đá nhau là chim khướu bạc má (có tên khoa học là Garrulax chinensis), khác với khướu đầu trắng (Garrulax lexcholophus). Ở vùng Kỳ Anh (Hà Tĩnh), A Lưới núi Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế) có loài khướu gọi là khướu mỏ dài, tên khoa học là Jabouilleia danjoui, đây là loài chim đặc hữu quý của Việt Nam vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thẩm mỹ. Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài, không cong, đuôi ngắn, bộ lông nâu hung vàng. Cằm, họng và giữa bụng trắng nhạt, sống định cư ở rừng độ cao 1000m. Ngoài ra, còn có 2 loài chim khướu có giá trị nữa trong 95 loài khướu ở Việt Nam là khướu mỏ dẹt đuôi ngắn và khướu xám. Khướu mỏ dẹt đuôi ngắn: Tên khoa học là Paradoxomus davidianus tonkinensis, cũng là họ Timaliidae, bộ sẻ Passeriformes. Chim này có đầu hung nâu tươi, đuôi nâu thẫm, cánh viền màu hung tươi, mắt hung nâu, chân xám hồng. Chúng sống ở các bụi tre nứa trên các vùng đồi có độ cao 600-1000m, có rất nhiều ở Bắc Cạn. Khướu xám: Tên khoa học là Garrulax maesi, đây là loài chim khi trưởng thành, phần lông trước mắt dưới mắt, má và cằm cùng dãy lông mày có màu đen nhạt. Hai bên đầu có vệt trắng rộng chạy từ phía sau mắt đến cổ; tai xám nhạt; bụng và ngực phớt nâu. Mắt nâu hoặc đỏ. Chân xám đen. Khước xám sống ở rừng rậm thường xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng khai thác. Người ta gặp chúng ở khu vực Lài Cao, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc… ở độ cao 1600m. Đây là loại chim hiếm, quý.
Vùng phân bố và đặc điểm màu sắc.
Trên thế giới, lòai chim khướu tập trung thành từng nhóm nhỏ, sống trong đám rừng tre hoặc trong những bụi cây rậm rạp. Tập trung ở miền nam Trung Quốc, phía tây tỉnh Vân Nam và khắp Đông Dương. Khướu được nuôi và biết nhiều nhất là khướu bạc má Garrulax chinensis, khướu mun Garrulax chinensis lugens và khướu đầu trắng Garrulax lexcholophus. Khướu đầu trắng còn có tên gọi khác là bù chao, hoặc gọi đầy đủ là bù chao đầu bạc. Khướu đầu trắng hót không hay bằng hai con trước, nhưng bù lại chúng có thể bắt chước, nhại lại giọng húyt sáo của con người nên nuôi chúng rất vui cửa vui nhà. Tại Việt Nam, chim khướu có mặt khắp nơi từ bắc miền Nam đến sát biên giới phía Bắc Việt Nam. Rất hiếm gặp tại tuyến rừng Bù Đăng – Bù Đốp đổ ra. Khướu có giọng hót rất lớn, rền và vang xa, đồng thời cũng có thể bắt chước được một số giọng hót đa dạng khác nên chúng cũng được gọi là khướu bách thanh. Màu sắc của chúng tùy theo từng địa phương: -Khướu đen tòan thân có màu đen, sống các vùng ven thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. trở ra. -Từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra, khướu có màu xám tro. -Miền Trung, khướu có màu xám xanh đậm. -Khu vực Đèo Chuối (Bảo Lộc) có màu xám xanh. -Từ Bù Na trở ra, khướu có màu lông vàng nâu. Khướu mun: Tòan thân có màu xám đen, màu tối nhưng nhìn sạch sẽ vì bộ lông óng mượt. Trên đầu lớt phớt vài cọng lông trắng, dưới hầu đen mun, chân đen, mỏ đen, ức cũng có vệt màu đen lan xuống lồng ngực. Chú ý con khướu đen nào có vệt đen nào càng dài càng quí. Khướu bạc má: tòan thân có màu hung hung đỏ, hai bên má có đốm trắng bằng móng tay. Là lọai khướu có giọng hót hay và đa dạng nhất, thông minh nhất trong các lọai chim khướu. Từ “khướu bách thanh” là dùng chỉ khướu bạc má. Khướu bạc má có thể bắt chước rất nhiều giọng, giọng hót dài, đa âm đa sắc. Đặc biệt là khướu bạc má sống tại vùng Blao và Lâm Đồng.
Phần 4 – Mùa sinh sản
Chim khướu thường đẻ vào mùa hè, tức là từ tháng 4 đến tháng 6. Ổ thường được làm trên các cây cao trên lưng chừng núi. Mỗi ổ chứa khỏang 3 – 5 quả trứng. Chim ấp 15 ngày trứng nở. Chim non sau 45 ngày có thể tự kiếm ăn. Đến 4 – 5 tháng tuổi, chim thay lông trưởng thành. Lúc này chim non bắt đầu tập hót, giọng sẽ từ từ lớn dần. Phần phụ – Chú ý: -Khướu có mỏ hở hoặc mỏ kênh sẽ hót được rất nhiều giọng. -Khướu có đuôi tròn khi nhảy thường xòe đuôi. Khi chim thuần, chim “hót hay múa đẹp” dễ dàng. -Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Tìm Hiểu Về Chim Chào Mào Bạch, Loài Chim Đột Biến Gen trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!