Đề Xuất 3/2023 # Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ # Top 12 Like | Lamdeppanasonic.com

Đề Xuất 3/2023 # Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ mới nhất trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Chào mào là chim Châu Á, từ Ấn độ với phía Nam Trung Quốc và kéo dài xuống phía Đông Nam á xuống Singapore-Indonsesia. Sau này được nhập vào Australia và đã sinh sản một số chim CM tức là gốc Châu Á. Được nhập vào tiểu bang Haiwaii ở Mỹ và tiểu bang tôi ở bây giờ là Florida. Nghe nói hồi thập niên 60 có nhập từ Ấn độ qua vài cặp và qua cơn bão. Chúng đã thoát ra và đã sinh sản được cũng trên 100 con. Tôi có xuống nhưng chưa thấy ngoài hoang dã, có thể là do xuống buổi trưa nên chim không bay ra ngoài hót. Có thể mùa này sinh sản có thể tìm thấy, bởi đã có vài hình ảnh người Mỹ đi du lịch xem chim đã chụp thấy có. Về hình dáng thì: chim CM quanh thế giới đều có net như nhau to hoặc nhỏ, và giọng có thể khác nhau do vùng chim. Riêng Ấn Độ thì: chim có cách tách đỏ rất to và lại có loại CM không có chấm trắng nơi đuôi. Về ở VN ta thì theo nghiên cứu của Giá Sư Võ Quý thì, từ HN xuống đèo Hải Vân là một giống, có hình dáng to con. Từ đèo Hải Vân và đổi Cao Nguyên Trung Phần xuống mà Nam là một giống. Và có hình dáng thân hình nhỏ con hơn một tí. có tên tiếng Anh là Red-whiskered Bulbul, tên khoa học là (Pycnonotus jocosus) và là một thành viên trong bộ chim sẻ biết hót, được phân bố hầu hết khắp châu Á. Chúng chính là loài được giới thiệu ở các nước nhiệt đới châu Á và do đó, chúng có những khu vực dành riêng do chúng tạo lập. Chúng ăn trái cây và côn trùng nhỏ và dễ thấy trên các nhánh cây vì các “cuộc gọi của họ” từ 1 – 4 âm tiết. Chúng có một cái mào dễ nhận biết, hai má trắng và phía trên “mảng” trắng là màu đỏ do đó khiến chúng có tên tiếng Anh là râu đỏ (Red-whiskered). Tại Việt nam, tùy theo vùng miền mà chúng có tên gọi khác nhau: Hoành hoạch mồng, chóp mũ đỏ, đít đỏ … nhưng tên thông dụng nhất vẫn là

Chúng là một trong nhiều loại chim được mô tả đầu tiên bởi nhà động vật vật – thực vật học – bác sĩ người Thụy Điển Calorus Linnaeus vào năm 1758 trong một tập sách xuất bản viết về các công trình của ông có tên gọi là Systerma Naturae. Trong đó, ông đã đặt chúng cùng với họ bách thanh là “ Turaha pigli-Pitta bulbul Sipahi Kanera bulbu Phari Pettigrew-kick II. Sinh sản, hành vi sinh thái:

(sẽ có phần phụ lục giới thiệu về 5 loài chim trên trong họ hoành hoặch) Đây là loài chim lồng rất phổ biến tại các vùng Ấn Độ đã được ghi nhận trên tạp chí của Hiệp hội châu Á của Bengal. Chúng yêu cầu nuôi dạy sử dụng thế chiến trận/chiến thuật với dáng vẻ không hề sợ hãi. Chúng cũng được yêu cầu dạy dỗ cho đứng trên lòng bàn tay hoặc ngón tay. Và là loài đang phát triển mạnh mẽ trong thế giới chim lồng ở các vùng tiếp theo tại Đông Nam Á. – Phần gốc mũ ở đỉnh đầu rậm hay thưa (như cách gọi so sánh là mũ kim hay sừng mà chúng ta hay gọi).

Các phân loài có tên và vùng phân bố tập trung được liệt kê sau đây:

Pycnonotus jocosus jocosus (Linneaus, 1758) , được tìm thấy ở phía đông nam Trung Quốc – khu vực đông Quý Châu đến Quảng Tây, phía đông Quảng Đông và Hong Kong.

Pycnonotus jocosus pyrrhotis (Bonaparte, 1850) – Bắc Ấn Độ (từ phía đông Punjab đến Arunachal Pradesh) và Nepal. Có phần lưng nhạt màu, phần yếm hoàn chỉnh như phân loài Pycnonotus jocosus fuscicaudatus và phần lông đuôi có bông trắng rất rõ ràng.

Pycnonotus jocosus whistleri (Deignan, 1948) được tìm thấy trong các quần đảo Andaman, có một màu nâu ấm áp ở phần lưng, có mũ kim, yếm đen dày nhưng ngắn hơn nhiều so với phân loài Pycnonotus jocosus emeria.

Pycnonotus jocosus Pattani (Deignan, 1948) – phân bố ở phía cực nam của Myanmar, cực nam ở Tenasserim), Thái Lan, phía bắc bán đảo Malaysia, Lào và nam đông dương Đông Dương.

Pycnonotus jocosus peguensis được ghi nhận mô tả từ miền nam Miến Điện nhưng đến nay chưa được hiệp hội công nhận. Minh họa một số hình ảnh của từng phân loài

Masinagudi-Ooty Road, Khu Nilgiris, Tamil Nadu, Ấn Độ (ssp fuscicaudatus)

Chiang Mai, Chiang Mai, tỉnh Tây Bắc Thái Lan, Thái Lan (ssp

Qua đó, xác định giới tính con mái có những đặc điểm như:

Con mái: lông đỏ ngắn hơn con trống, chiều dài cánh ngắn hơn (kích thước do được là 78 – 85 mm), dáng nhỏ con.

Con trống: Chiều dài cánh dài hơn, kích thước từ 83 – 91, lông đỏ dài và dày hơn.

Sự khác biệt giữa hai giới tính ở chim (ảnh dưới) – con bên trái là con mái được so sánh cùng độ tuổi.

Đi sâu vào vấn đề của các loại quả chín, mọng nước và có sắc tố đỏ. Sắc tố đỏ được quyết định bởi chất vi lượng gọi là chất sắc (Fe) dưới dạng mà cơ cấu hấp thu của hệ thống tiêu hóa chim chào mào hấp thụ được. Hầu hết các hạt trong quả đỏ ấy đều có thành phần các hợp chất “nhầy nhầy” được bao bọc xung quanh hạt. Chính các lớp “nhầy nhầy” là thành phần đáng kể nhất, cung cấp đa vi lượng chất Fe nhiều nhất cho sự hoạt động tái tạo chất đỏ trên cơ thể chim chào mào. Đó là một cách sống chung để cùng phát triển: Cộng sinh!

Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài. Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Criniger và Hypsipetes theo phân loại của Howard-Moore còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.

Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys

Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)

Chi Ixos (cận ngành) Gần với Hemixos

Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala

Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger

Cành cạch ô liu, Iole virescens

Họ Chào mào (danh pháp khoa học: Pycnonotidae) là một họ chứa các loài chim biết hót kích thước trung bình thuộc bộ Sẻ, sinh sống tại châu Phi và nhiệt đới châu Á. Họ này chứa khoảng 130 loài.

Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons

Tên gọi phổ biến trong tiếng Việt là chào mào, bông lau, hoành hoạch và cành cạch, trong đó tên gọi cành cạch được dùng cho các loài chim trong chi Alophoixus, Hemixos, Hypsipetes, Iole và Ixos còn tên gọi chào mào là tên gọi dân dã cho ‘chào mào ria đỏ’ (Pycnonotus jocosus). Tên gọi này cũng áp dụng cho chi Spizixos và một vài loài khác trong chi Pycnonotus. Bông lau được sử dụng cho phần lớn các thành viên của chi Pycnonotus (ngoại trừ những loài nào gọi là chào mào). Tuy nhiên do không phải loài nào cũng có mặt tại Việt Nam nên trong bài gọi chung là chào mào khi có thể.

Các loài chim này chủ yếu là chim ăn quả. Một số có màu sặc sỡ với huyệt, má, họng, lông mày có màu vàng, đỏ hay da cam, nhưng phần lớn có bộ lông buồn tẻ với màu chủ đạo là đen hay nâu ô liu đồng nhất. Một số loài có mào rất đặc biệt.

Nhiều loài sinh sống trên phần ngọn của cây cối trong khi một số loài chỉ sống ở các tầng cây thấp. Chúng đẻ tới 5 trứng có màu hồng tía trong các tổ trên cây và chim mái ấp trứng.

Chào mào (Pycnonotus jocosus) sinh sống rộng rãi trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chẳng hạn ở miền nam Florida, Hoa Kỳ.

Các sắp đặt truyền thống chia các loài chào mào thành 4 nhóm, gọi là các nhóm Pycnonotus, Phyllastrephus, Criniger và Chlorocichla theo các chi đặc trưng này. Tuy nhiên, các phân tích gần đây chứng minh rằng kiểu sắp xếp này có lẽ đã dựa trên diễn giải sai lầm các đặc trưng:

Greenbul vàng kim, Calyptocichla serina

Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.

Chi Pycnonotus (cận ngành)

Chào mào vàng đầu đen, Pycnonotus atriceps

Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni

Chào mào ria đỏ hay chào mào, Pycnonotus jocosus

Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous

Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus

Chào mào đen trắng, Pycnonotus melanoleucus

Chào mào vàng mào đen, Pycnonotus melanicterus

Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos

Chào mào bụng xám, Pycnonotus cyaniventris

Bông lau nâu nhỏ hay chào mào bốn mắt, Pycnonotus erythropthalmos

Chào mào đầu vàng rơm, Pycnonotus zeylanicus

Chào mào mắt đỏ, Pycnonotus brunneus

Chào mào cánh ô liu, Pycnonotus plumosus

Bông lau mày trắng hay chào mào huyệt vàng, Pycnonotus goiavier

Chào mào ngực đen, Pycnonotus nigricans

Chào mào má trắng, Pycnonotus leucogenys

Chào mào thường, Pycnonotus barbatus

Chào mào vạch hay chào mào vằn, Pycnonotus striatus

Chào mào sọc kem, Pycnonotus leucogrammicus

Chào mào cổ đốm, Pycnonotus tympanistrigus

Chào mào đầu xám, Pycnonotus priocephalus

Chào mào Styan, Pycnonotus taivanus

Chào mào ngực vảy, Pycnonotus squamatus

Bông lau Trung Quốc hay chào mào huyệt sáng, Pycnonotus sinensis

Chào mào Cape, Pycnonotus capensis (loài điển hình)

Chào mào kính trắng, Pycnonotus xanthopygos

Chào mào tai trắng, Pycnonotus leucotis

Bông lau đít đỏ hay chào mào huyệt đỏ, Pycnonotus cafer

Bông lau tai trắng hay chào mào đầu than hoặc bông lau đít đỏ, Pycnonotus aurigaster

Chào mào yếm lam, Pycnonotus nieuwenhuisii (tranh cãi)

Chào mào yếm vàng, Pycnonotus urostictus

Chào mào đốm cam, Pycnonotus bimaculatus

Chào mào họng vàng, Pycnonotus xantholaemus

Chào mào tai vàng, Pycnonotus penicillatus

Bông lau vàng hay chào mào Flavescent, Pycnonotus flavescens

Chào mào trán trắng, Pycnonotus luteolus

Bông lau tai vằn hay chào mào tai sọc, Pycnonotus blanfordi

Chào mào huyệt kem, Pycnonotus simplex

Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques

Chào mào mỏ lớn, Spizixos canifrons

Chào mào khoang cổ, Spizixos semitorques

Cành cạch lưng rậm lông, Tricholestes criniger

Cành cạch mỏ móc, Setornis criniger

Chi Alophoixus – trước đây gộp trong chi Criniger, có thể là đa ngành

Cành cạch Finsch, Alophoixus finschii

Cành cạch họng trắng, Alophoixus flaveolus

Cành cạch lớn hay cành cạch họng bồng, Alophoixus pallidus

Cành cạch bụng hung hay cành cạch đất son, Alophoixus ochraceus

Cành cạch má xám, Alophoixus bres

Cành cạch bụng vàng, Alophoixus phaeocephalus

Cành cạch vàng kim, Alophoixus affinis

Cành cạch ô liu, Iole virescens

Cành cạch nhỏ hay chào mào mắt xám, Iole propinqua

Cành cạch huyệt vàng da bò, Iole olivacea

Cành cạch trán vàng, Iole indica

Cành cạch xám hay chào mào xám tro, Hemixos flavala

Cành cạch hung hay chào mào nâu dẻ, Hemixos castanonotus

Cành cạch Mã Lai hay chào mào sọc, Ixos malaccensis

Cành cạch bụng vàng, Ixos palawanensis – Hypsipetes?

Cành cạch ngực sọc, Ixos siquijorensis – Hypsipetes?

Cành cạch vàng nhạt, Ixos everetti

Cành cạch Zamboanga, Ixos rufigularis

Cành cạch núi hay chào mào núi, Ixos mcclellandii

Cành cạch Sunda, Ixos virescens

Cành cạch tai nâu, Microscelis amaurotis (đôi khi gộp trong chi Ixos)

Cành cạch Philippine, Hypsipetes philippinus – trước đây trong chi Ixos

Cành cạch Madagascar, Hypsipetes madagascariensis

Cành cạch đen hay chào mào đen, Hypsipetes leucocephalus

Cành cạch Seychelles, Hypsipetes crassirostris

Cành cạch thông thường, Hypsipetes parvirostris

Cành cạch Reunion, Hypsipetes borbonicus

Cành cạch Mauritius, Hypsipetes olivaceus

Cành cạch Nicobar, Hypsipetes virescens

Cành cạch đầu trắng, Hypsipetes thompsoni

Greenbul điển hình và đồng minh

Chi Phyllastrephus (19 loài)

Chi Andropadus (12 loài; có thể đa ngành)

Chi Thescelocichla – Greenbul đầm lầy

Chi Chlorocichla (6 loài)

Chi Ixonotus – Greenbul đốm (đặt vào đây không chắc chắn)

Chi Bleda – chim mỏ cứng (3 loài)

Chào mào vòng cổ đen, Neolestes torquatus

Nó có thể là đồng minh của chi Calyptocichla hay không phải là chào mào thật sự.

Tách ra gần đây từ Pycnonotidae

Greenbul mỏ dài ở Madagascar hiện nay được coi là thuộc về nhóm chích Malagasy.

Hiện nay trong chích Malagasy

Chi Bernieria – trước đây trong chi Phyllastrephus

Greenbul mỏ dài, Bernieria madagascariensis

Chi Xanthomixis – trước đây trong chi Phyllastrephus; có thể đa ngành

Greenbul khoang mắt, Xanthomixis zosterops

Tetraka Appert, Xanthomixis apperti

Greenbul tối màu, Xanthomixis tenebrosus

Greenbul đầu xám, Xanthomixis cinereiceps

Nicator đốm vàng, Nicator chloris

Nicator miền đông, Nicator gularis

Chào mào thuộc về nhóm Pycnonotus châu Á.

Bông lau họng vạch hay chào mào họng sọc, Pycnonotus finlaysoni

Bông lau ngực nâu hay chào mào ngực nâu, Pycnonotus xanthorrhous

Chào mào lưng bồng, Pycnonotus eutilotus

Tìm Hiểu Về Mười Loài Chim Đẹp Nhất

Chim là loài duy nhất có lông vũ và đa số các loài lông vũ đều biết bay. Đó là đặc điểm để phân biệt chim với các loài khác. Trên thế giới có 10.000 loài chim, trong sổ các loài chim này con người đã chọn ra 10 loài có bộ cánh sặc sỡ nhất, vẻ đẹp của chúng đã góp phần vào tô điểm cho vẻ đẹp của thiên nhiên.

Trĩ vàng (Chrysolophus pictus)

Trĩ vàng châu Á được nuôi như một loại chim cảnh. Quê hương của chúng ở vùng rừng núi miền Tây Trung Quốc, nhưng ở Anh và một nơi khác cũng có những quần thể hoang dã này.

Hồng Hạc

Hồng hạc sống cả ở phần Bắc và Nam bán cầu. Chúng thường đứng trên một chân. Đây là một thói quen rất đặc biệt của loài chim này. Loài này, có tác dụng rất lớn, lưỡi của chúng có thể dùng làm món ăn trân quý của người La Mã cổ. Còn những người thợ mỏ làm việc trên dãy An de lại bắt hồng hạc để lấy mỡ của chúng dùng chữa bệnh lao.

Hoàng oanh phương Bắc (Icterus galbula)

Hoàng oanh phương Bắc là một loài chim không to với bộ lông đen và vàng xen kẽ, loài chim này chỉ nặng khoảng 34g và dài 18cm. Đây ià một trong những loài chim màu lông rực rõ, hoàng oanh không chỉ đẹp mà còn hót rất hay. Vì thế, người ta thường dùng thành ngữ “thỏ thẻ giọng oanh vàng” để chỉ người phụ nữ.

Chào mào Hồng y giáo chủ (Cardinalis cardinahs)

Loài chim này được mệnh danh là Hồng y giáo chủ bởi chúng mang bộ cánh màu đỏ rực rỡ với chiếc mũ đỏ đội trên đầu. Loài chim này có thân hình nhỏ bé, chiều dài khoảng 21 – 23cm. Hơn nữa, trông chúng giống như có chiếc mặt nạ đeo trước mặt, chim trống mang mặt nạ đen còn chim mái mặt nạ xám.

Uyên ương (Aix sponsa)

Uyên ương là một loài chim di trú, thuộc gia đình vịt trời. Chúng luôn luôn sống có đôi nên hình ảnh ấy đưọc con người ví với những cặp vợ chồng hạnh phúc. Ở loài này thì con chim trống đẹp hơn chim mái bởi nó có bộ lông mang nhiều màu sắc, chuyển từ màu nọ sang màu kia rất hài hoà, mắt đỏ.

Bói cá

Có 90 loại bói cá. Hình dáng của bói cá không cân đối. Đầu to, mỏ dài, nhọn, chân ngắn, đuôi cộc. Tuy nhiên, bộ lông của chúng rất đẹp. Mặt khác, mắt bói cá rất tinh và tốc độ bổ nhào rất nhanh. Bói cá có mặt trên toàn thế giới.

Sẻ đất màu (Passerina ciris)

Sẻ đất màu được xem là loài chim đẹp nhất của Bắc Mỹ. Màu lông của nó giống như tấm bảng pha màu của các họa sĩ, khiến người ta nghĩ rằng chúng không phải là “tác phẩm” của thiên nhiên với những màu tươi. Chính vì thế, sẻ đất dễ bị phát hiện và săn đuổi vì không nấp vào đâu được.

Tucan mỏ lục (Ramphastos sulfuratus)

Loài chim này sống trong các khi rừng ở Nam Mỹ, từ nam Mehico đến Honduras. Toàn thân chúng dài khoảng 50cm, quanh mắt có màu xanh lá cây. Loài chim này mỏ lớn, bộ lông này xanh lá cây nhưng mép mỏ màu da cam và đầu mỏ màu đỏ. Mỏ tucan tuy to nhưng lại nhẹ và xốp.

Vẹt Macao (Ara macao)

Vẹt Macao to và bộ lông được pha trộn các màu rực rõ. Quê hương của chúng là ở vùng nhiệt đới Nam Mỹ, nhiều nhất là ở Braxin và Peru. Loài chim này được các nhà sinh học biết đến khi người Bồ Đào Nha đưa chúng về Macao nuôi và từ đó chúng có tên gọi này.

Công (Payo)

Công là loài chim lớn, thuộc họ trĩ. Đặc biệt, công trông có bộ lông rất đẹp. Khi công trông múa (để quyến rủ công mái), đuôi của nó xoè to như một chiếc quạt nhiều màu sắc rực rỡ. Ở châu Á có nhiều nước nuôi công dùng làm cảnh trong gia đình.

Tìm Hiểu Về Đặc Điểm Sinh Thái Của Loài Chim Yến

Loài chim yến ở Việt Nam có tên là Colloccalia fuciphaga germani hay còn có tên gọi là Aerodramus fuciphagus germanicus.

Điều kiện khí hậu, môi trường trong nhà thích hợp để chim Yến sinh sống làm tổ.

Nhiệt độ trong nhà yến phù hợp nhất là từ 26-31°C, tuy nhiên tùy theo vùng miền, chim yến vẫn có thể chấp nhận sống trong điều kiện nhiệt độ trung bình không đồng đều trong các nhà yến.

Độ ẩm tốt nhất là 74% – 85%, số lượng cá thể chim yến làm tổ trong mùa sinh sản luôn cao và tương đối ổn định. Với môi trường độ ẩm cao hơn từ 89%-92%, sản lượng có thể giảm 15-18% và dễ gây hư hao cho các vật dụng trang thiết bị trong nhà yến. Với độ ẩm thấp hơn 74%, chim yến sẽ không vào làm tổ.

Cường độ ánh sáng yêu cầu trong nhà yến phải dưới 0,5 lux.

Theo kết quả nghiên cứu chim yến sống ở các đảo thì các cửa hang tự nhiên đều ở trong 3 hướng là Đông, Nam và Bắc. Ở hang cửa hướng Đông chiếm 55,6%, hướng Nam và hướng Bắc chiếm 44,4%. Chim Yến thường chọn hang có cửa hướng Đông do có sự tương thích về thời gian và chu kỳ chiếu sáng. Miệng hang ra vào của việc nuôi chim trong nhà cũng thường được bố trí theo các hướng này.

Chọn theo hướng Đông, nếu chuồng nằm ở một phần ở giữa nhà yến thì có một phần trong nhà yến bị ảnh hưởng nhưng cường độ ánh sáng dưới 0,5 lux không ảnh hưởng đến sinh hoạt chim yến, nếu chuồng cu nằm ở cuối nhà yến cùng hướng Đông thì cường độ ánh sáng yêu cầu dưới 0,02 lux, nếu chuồng cu nằm ở cuối nhà yến là hướng Tây thì cường độ ánh sáng yêu cầu dưới 0,5 lux và cần chỉnh sửa ở phòng lượn.

Trong mùa sinh sản chim yến rời và về nhà yến, thời kỳ chim ghép đôi và làm tổ 1 lần/ngày, khoảng thời gian chim đẻ và ấp trứng 2 lần/ngày, khi nuôi và chăm sóc con non 4-5 lần/ngày.

Chim yến sinh sản theo mùa, bắt đầu xây tổ vào khoảng giữa tháng 01, bắt đầu đẻ trứng từ giữa cuối tháng 3.

Chim yến đực và cái cùng nhau làm tổ, cùng ấp và nuôi chim con, sinh sống khá ổn định, bay đi, bay về đúng hang, đúng tổ theo những hướng khá ổn định.

Chim non lúc mới nở ra trụi lông, màu hồng nhạt, da nhăn nheo. Sau 5 – 6 ngày tuổi, đâm lông tơ, lông mọc rất ít, chậm và giữ ít lông như vậy đến khoảng 20 ngày tuổi và bắt đầu mọc đều ở 30 – 40 ngày tuổi, khoảng 45 ngày thì chim con sẽ bay được.

Chim yến 8 – 10 tháng tuổi thành thục và đẻ trứng lần đầu.

Chim xây tổ 30-80 ngày, thời gian kết đôi và đẻ trứng 5-8 ngày, ấp trứng khoảng 23 ÷ 30 ngày, từ trứng nở đến lúc chim non bay khỏi tổ là 40-46 ngày.

Chim yến nhà bắt cặp ghép đôi sau 3-4 tháng tuổi.

Nhịp độ sinh sản phụ thuộc vào việc thu hoạch tổ yến. Nếu sau khi chim yến làm xong tổ và chuẩn bị đẻ mà bị lấy tổ không cho chim ấp nở nuôi con thì chim sẽ lập tức làm tổ mới nên chim nhà có thể đẻ nhiều lần trong chu kỳ một năm.

Trong nhà yến để chim ấp nở tự nhiên thì mỗi năm mỗi cặp chim chỉ đẻ khoảng 3 lần. Một chu kỳ sinh sản của chim yến khoảng từ 3-4 tháng, trong đó 1-2 tháng là xây tổ và 2,5 tháng ấp nở nuôi con, có thời gian nghỉ nhưng khi bạn nuôi quần đàn thì sẽ có tổ quanh năm.

Chim yến tổ trắng làm tổ là để đẻ trứng, ấp và nuôi con, không phải làm tổ để ở nên chim không di cư vào mùa đông. Âm thanh dụ yến cũng rất quan trọng quyết định việc yến có bay vào nhà làm tổ hay không.

Tìm Hiểu Về Giống Chim Khướu

Khướu (Timaliidae) họ chim, thuộc bộ Sẻ (Passeriformes) gồm các loài chim rất đa dạng, có cỡ trung bình, một số loài khướu cỡ nhỏ. Bộ lông khướu mềm, dày, xốp, thường có màu xỉn, cánh tròn, chân khỏe và cao, thích nghi với việc di chuyển trên mặt đất và trên các cành cây, có tiếng hót vang và hay.

Phần lớn khướu sống thành đàn nhỏ, trong các tầng cây bụi hay dưới tán rừng, chủ yếu sống định cư. Tổ hình chén hoặc tổ có mái che. Phần lớn các loài khướu, con trống và con mái có bộ lông và vóc dáng giống nhau.

I. Các loài khướu: Trên thế giới có 254 loài khướu. Việt Nam có 95 loài, được xếp vào loài đặc hữu Việt Nam, phân bố ở các tỉnh miền Trung Việt Nam (như Quảng Bình, Quảng Trị), nam Trung bộ và đặc biệt ở Lâm Đồng. Khướu mun (tên khoa học là Garrulax chinensis lugens) được nuôi làm cảnh từ những năm 1994-1995 nhưng là vì chim rừng, nên khó nuôi. Chim khướu chọn nuôi đá nhau là chim khướu bạc má (có tên khoa học là Garrulax chinensis), khác với khướu đầu trắng (Garrulax lexcholophus). Ở vùng Kỳ Anh (Hà Tĩnh), A Lưới núi Bạch Mã (Thừa Thiên-Huế) có loài khướu gọi là khướu mỏ dài, tên khoa học là Jabouilleia danjoui, đây là loài chim đặc hữu quý của Việt Nam vừa có giá trị khoa học vừa có giá trị thẩm mỹ. Chim khướu này khi trưởng thành có mỏ dài, không cong, đuôi ngắn, bộ lông nâu hung vàng. Cằm, họng và giữa bụng trắng nhạt, sống định cư ở rừng độ cao 1000m. Ngoài ra, còn có 2 loài chim khướu có giá trị nữa trong 95 loài khướu ở Việt Nam là khướu mỏ dẹt đuôi ngắn và khướu xám. Khướu mỏ dẹt đuôi ngắn: Tên khoa học là Paradoxomus davidianus tonkinensis, cũng là họ Timaliidae, bộ sẻ Passeriformes. Chim này có đầu hung nâu tươi, đuôi nâu thẫm, cánh viền màu hung tươi, mắt hung nâu, chân xám hồng. Chúng sống ở các bụi tre nứa trên các vùng đồi có độ cao 600-1000m, có rất nhiều ở Bắc Cạn. Khướu xám: Tên khoa học là Garrulax maesi, đây là loài chim khi trưởng thành, phần lông trước mắt dưới mắt, má và cằm cùng dãy lông mày có màu đen nhạt. Hai bên đầu có vệt trắng rộng chạy từ phía sau mắt đến cổ; tai xám nhạt; bụng và ngực phớt nâu. Mắt nâu hoặc đỏ. Chân xám đen. Khước xám sống ở rừng rậm thường xanh nguyên sinh, thứ sinh và rừng khai thác. Người ta gặp chúng ở khu vực Lài Cao, Yên Bái, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc… ở độ cao 1600m. Đây là loại chim hiếm, quý.

Vùng phân bố và đặc điểm màu sắc.

Trên thế giới, lòai chim khướu tập trung thành từng nhóm nhỏ, sống trong đám rừng tre hoặc trong những bụi cây rậm rạp. Tập trung ở miền nam Trung Quốc, phía tây tỉnh Vân Nam và khắp Đông Dương. Khướu được nuôi và biết nhiều nhất là khướu bạc má Garrulax chinensis, khướu mun Garrulax chinensis lugens và khướu đầu trắng Garrulax lexcholophus. Khướu đầu trắng còn có tên gọi khác là bù chao, hoặc gọi đầy đủ là bù chao đầu bạc. Khướu đầu trắng hót không hay bằng hai con trước, nhưng bù lại chúng có thể bắt chước, nhại lại giọng húyt sáo của con người nên nuôi chúng rất vui cửa vui nhà. Tại Việt Nam, chim khướu có mặt khắp nơi từ bắc miền Nam đến sát biên giới phía Bắc Việt Nam. Rất hiếm gặp tại tuyến rừng Bù Đăng – Bù Đốp đổ ra. Khướu có giọng hót rất lớn, rền và vang xa, đồng thời cũng có thể bắt chước được một số giọng hót đa dạng khác nên chúng cũng được gọi là khướu bách thanh. Màu sắc của chúng tùy theo từng địa phương: -Khướu đen tòan thân có màu đen, sống các vùng ven thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. trở ra. -Từ Quảng Trị, Quảng Bình trở ra, khướu có màu xám tro. -Miền Trung, khướu có màu xám xanh đậm. -Khu vực Đèo Chuối (Bảo Lộc) có màu xám xanh. -Từ Bù Na trở ra, khướu có màu lông vàng nâu. Khướu mun: Tòan thân có màu xám đen, màu tối nhưng nhìn sạch sẽ vì bộ lông óng mượt. Trên đầu lớt phớt vài cọng lông trắng, dưới hầu đen mun, chân đen, mỏ đen, ức cũng có vệt màu đen lan xuống lồng ngực. Chú ý con khướu đen nào có vệt đen nào càng dài càng quí. Khướu bạc má: tòan thân có màu hung hung đỏ, hai bên má có đốm trắng bằng móng tay. Là lọai khướu có giọng hót hay và đa dạng nhất, thông minh nhất trong các lọai chim khướu. Từ “khướu bách thanh” là dùng chỉ khướu bạc má. Khướu bạc má có thể bắt chước rất nhiều giọng, giọng hót dài, đa âm đa sắc. Đặc biệt là khướu bạc má sống tại vùng Blao và Lâm Đồng.

Phần 4 – Mùa sinh sản

Chim khướu thường đẻ vào mùa hè, tức là từ tháng 4 đến tháng 6. Ổ thường được làm trên các cây cao trên lưng chừng núi. Mỗi ổ chứa khỏang 3 – 5 quả trứng. Chim ấp 15 ngày trứng nở. Chim non sau 45 ngày có thể tự kiếm ăn. Đến 4 – 5 tháng tuổi, chim thay lông trưởng thành. Lúc này chim non bắt đầu tập hót, giọng sẽ từ từ lớn dần. Phần phụ – Chú ý: -Khướu có mỏ hở hoặc mỏ kênh sẽ hót được rất nhiều giọng. -Khướu có đuôi tròn khi nhảy thường xòe đuôi. Khi chim thuần, chim “hót hay múa đẹp” dễ dàng. -Chim trống chú ý vùng lông bao phủ hậu môn, lông có màu vàng khét.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Tìm Hiểu Về Loài Chim Chào Mào Và Các Loài Chim Cùng Họ trên website Lamdeppanasonic.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!